Du hành thời gian cùng với chuyến xe trâu trong "Những đứa trẻ chết già"

Leave a Comment
Khi đọc tiểu thuyết “Những đứa trẻ chết già” của Nguyễn Bình Phương, hẳn là chúng ta sẽ nhận thấy mạch truyện được chia ra làm hai phần chính, và hai phần này, chạy song song đồng thời xuyên suốt cả tác phẩm. Một bên, kể về câu chuyện của người dân ở làng Phan mà trung tâm là gia đình ông Liêm. Và một bên là chuyến xe trâu trên đó có gã đánh xe, hai thanh niên và một người mà tác giả không chỉ đích danh người đó tên gì, chỉ thấy tác giả thâm nhập vào nhân vật ấy và xưng là “ông”. Ở đây, chúng tôi sẽ không có tham vọng phân tích toàn bộ cuốn tiểu thuyết cũng như muốn giải thích những vấn đề có liên quan đến cả hai phần của tác phẩm, mà quan tâm của chúng tôi, chỉ với việc đặt chú ý vào khung cảnh ở đó diễn ra chuyến xe trâu ấy. Và thời gian diễn ra khung cảnh đó dường như đã tạo ra một sức hấp dẫn kỳ lạ, khiến chúng tôi quyết định thực hiện một chuyến du hành cùng với nó.

Cũng trong việc đọc tiểu thuyết này, nếu người đọc nào có am hiểu về vật lý hiện đại hẳn lại là có thể có được nhiều điểm nhìn hơn nữa. Theo một vài hiểu biết hạn hẹp của chúng tôi, thì với việc định hình nên trong mạch truyện diễn ra thông qua nhiều hoàn cảnh khác nhau, ở đây, trong vật lý hiện đại, và nhất là cơ học lượng tử, thì những kết luận suy ra từ thí nghiệm con mèo Schrödinger (Schrödinger’s cat) sẽ chỉ cho chúng ta biết rằng, một hệ quy chiếu khả dĩ được xác định thông qua sự chập chồng các trạng thái khác nhau của đối tượng (lượng tử), điều này ngang bằng với cách mà Hugh Everett (1923-2004) đã giải thích thông qua lý thuyết đa vũ trụ (multiverse), khi ông đưa ra quan niệm về trạng thái tương đối (relative state). Từ những hệ quả của thí nghiệm con mèo Schrödinger đem lại, chúng ta có thể hiểu rằng, trong một thế giới, các trạng thái sự kiện chập chồng và lan tỏa vào nhau, nhưng khi đứng ở thế giới cổ điển (thế giới bình thường mà chúng ta đang sống – thế giới với ba chiều không gian và một chiều thời gian) chúng ta hoàn toàn không nhận ra được điều đó, ở đây phần nào vì chúng ta được đặt vào trong tình huống trước sức ảnh hưởng tuyến tính của thời gian, đóng vai trò như là một chiều kích thứ tư của thế giới vật lý – tức là thế giới hiện thực trong đó ta đang sống và sinh hoạt hàng ngày, nó kéo chúng ta đi theo nó và chúng ta cũng chỉ có thể tồn tại như một điểm trên trục số của nó không hơn không kém. Thế nhưng, khi chúng ta sử dụng khái niệm đa vũ trụ thì bản chất của thời gian dường như đã được đem lại dưới cái nhìn khác đi. Thời gian ở đây không phải mang tính chất biến thiên nữa, nó không phải là sự biến thiên dựa trên việc thay đổi trạng thái này đến một trạng thái khác. Nếu xét trong một tầm mức đa vũ trụ thì các vũ trụ song song đều chứa đựng tất cả mọi cấu hình cũng như khả năng xảy ra của việc thay đổi các trạng thái khác nhau của vật chất thì thời gian chẳng qua chỉ là cách thức thiết đặt các trạng thái ấy thành một dãy.

Đó chỉ là gợi ý của chúng tôi khi cố gắng nêu cách hiểu của mình về vấn đề của cơ học lượng tử để có thể hiểu được việc bố trí các tình huống truyện của tác giả mà thôi. Có như thế chúng ta mới thấy các sự kiện cũng như hoàn cảnh trong truyện được phân chia và dường như được nhắc đến đồng thời như vậy không phải là vô lý. Và cũng như từ đầu chúng tôi đã đưa ra, mục đích của chúng tôi, ở đây chỉ là muốn thực hiện một chuyến du hành cùng với thời gian trên chuyến xe trâu, mà điều quan trọng là phải có được một sự hội nhập vào thế giới nội tâm của người xưng “ông” ấy.

Làm sao để thời gian trong truyện lại có thể tạo lập nên được một không gian, mà chính cái không gian ấy như là kết quả của việc thời gian được kéo dài ra và tạo thành một không gian thực sự cho mỗi sự kiện được diễn ra? Tại sao bằng với việc neo vào dòng chảy ý thức, chúng ta có thể phá vỡ được sức kháng cự của tuyến tính thời gian vốn không thể chấp nhận được những điều mới xem qua dường như có thể xem là nghịch lý như thế?

Chuyến xe trâu hiện lên trên một buổi chiều ảm đạm của hoàng hôn trung du. Bên kia chiếc xe trâu đang đi cũng là đoàn tàu chạy sóng đôi như thế. Trên cuộc hành trình của chuyến xe trâu, theo quan sát, chúng ta thấy dường như là cả một sức sống động của quá khứ đang lấn át hiện tại, từ thế giới nội tâm của người đàn ông dàn dựng nên, và những gì chúng ta đọc được chính là những gì mà người đàn ông này đang nhớ về thời gian trước đây của mình. Ở đây, có thể cũng vì một phần hiện tại – đang là buổi chiều hoàng hôn trung du – có vẻ thích hợp cho tâm trạng của con người khi anh ta sống lại với quá khứ của mình.

Henry Bergson (1859-1941), triết gia Pháp, cho rằng, “mọi ý thức là ký ức nghĩa là bảo tồn và chất chứa quá khứ trong hiện tại.”[[1]] Cũng trong chiều hôm nay, ông đang ngồi trên chiếc xe này, và đi, nhưng trong suốt hành trình bánh xe lăn trên mặt đường ấy lại là cả một đoạn phim với rất nhiều bối cảnh được ông tái hiện nên. Những bối cảnh đó, xuất phát từ hoài niệm trong ông. Điều này lại khiến ta chú ý nhiều hơn đến những biểu hiện của hoài niệm ấy. Lên đường và du hành trở ngược lại quá khứ, đắm chìm trong đó ta mới thấy được quãng đường mà người ấy đã trải qua như thế nào. Hoài niệm kia đã được tái hiện ra sao? Đó là lúc ông nhớ đến em gái của mình đầu tiên. Nhớ về cũng một buổi chiều như thế này khi ông còn nhỏ. Khi đó, ông cùng đi xe với bố ông và em gái ông. Dòng chảy ý thức đưa ta về với trước đây qua hoài niệm.

Tính chất chung của bất kỳ một hoài niệm nào cũng là việc bất xác định được thời điểm diễn ra những gì mình đã trải qua, trong khi, trước mắt mình đang tri giác đến những điều tương tự như thế. Điều này khiến cho “hoài niệm được gợi ra là một hoài niệm lơ lửng giữa trời, không có điểm tựa ở quá khứ.”[[2]] Nói một cách rành mạch rằng, không có điểm tựa ở quá khứ chính là việc xác định một vị trí và thời điểm mà sự kiện được tái hiện ra, bảo rằng, tương tự đã từng xảy ra như thế rồi. Đó là thước phim được kết nên khi ông nhớ về lão Hạng, kể lão Hạng mê cây, kể chuyện con lão Hạng chết, rồi đến lão chết, và vì sao quen được lão Hạng – trong một chiều đi làm về trú mưa. Sau lão Hạng ông lại nhớ đến trận đánh không dùng súng với đối phương, ông nhớ đến Chí – người đồng đội và cũng là đồng hương hy sinh trong trận đánh đó. Ông lại nhớ về lão Biền – thợ cắt tóc và cũng là bạn ông. Rồi ông nhớ đến chị Cải – con bác Lung, anh của mẹ ông. Nhưng không chỉ chừng đó, ông còn nhớ về ông ngoại, nhớ người thợ mộc tên Quang, nhớ về câu chuyện giữa bố ông và ông Trạch – bố của Chí. Qua đó, chúng ta mới thấy được rằng, những gì được dấy lên từ hoài niệm thì “nó lấn nhập một cách rất tự nhiên vào thế giới hiện thực.”[[3]] Cả một quá trình ông nhớ lại, tái hiện lại chúng đã phân bố vào trong các sự kiện, và cũng chính những sự kiện ấy đã trở thành sự tiếp nối cho cả một quá trình chiếc xe trâu đang chạy.

Điều khó hiểu nhất ở đây chính là cách mà hoài niệm tạo ra một khoảng trống cho dòng chảy ý thức đổ vào trong đấy những gì đã được bơm lấy sức sống (sức tái hiện). Trong phân tích của Trần Đức Thảo về tính biện chứng của giây phút hiện tại, ông cho rằng hiện hữu được đặt trong một động lực chuyển tiếp những gì tồn đọng từ quá khứ và không ngừng đổ dồn về phía tương lai. “Sự nối tiếp của thời gian luôn bao hàm trong chiều sâu của nó một sự lắng đọng từ trên xuống, vận hành như được lưu trữ từ dưới lên.”[[4]]

Chuyến xe trâu trong chiều hoàng hôn là một sự kéo dài của những gì rơi rớt lại từ quá khứ đến hiện tại. Khả năng thâm nhập và trao đổi sự có mặt của nhau giữa quá khứ và hiện tại lại được đáng chú ý hơn khi sức ảnh hưởng của hoài niệm luôn lấn át những giây phút ông ấy sống trong hiện tại. Trong một sự trầm tư và đấy cũng chính là hoài niệm, ông ấy đã sống lại với những gì mình đã có. Làm sao để thời gian trong dòng chảy ý thức của ông có thể tan ra để hình thành nên những chốn ải nơi đó có ông? Dường như ranh giới của thời gian và không gian trong truyện đã không được thiết lập dựa trên tri giác đúng nghĩa mà phần lớn là dựa trên sự kết hợp hội nhập của hoài niệm vào hiện tại. Và để ý hơn nữa chúng ta sẽ thấy được rằng, những khung cảnh đã được ông ấy tái hiện lại, mà trong đó, các nhân vật nằm trong phần sự kiện của phía bên này gắn với bản thân ông dường như có phần nào đó liên quan đến phía bên kia của một trong hai phần của tiểu thuyết. Cũng như khi mà hoài niệm được khơi dậy, vì tính tạo nét của nó khá mờ, cho nên, dường như sự hội nhập hoài niệm vào hiện tại đã làm cho hành trình của chuyến xe trâu đang đi trong cả hai thế giới – thế giới của thực tế, và một thế giới của huyễn mộng (cuối truyện ông nhìn xuống xe thấy chiếc xe trong suốt). Đó là khi ông nhớ về cái chết của Lão Biền, về đám cưới của Chị Cải. Cảnh Lão Biền chết trong cơn mê sảng và cảnh Chị Cải lên xe về nhà chồng trong bãi tha ma. Một sự lấn nhập cho phép những gì xem như là vô lý lại được kết hợp vào trong quá trình mà sức ứ đọng của hoài niệm có thể tạo ra trong dòng chảy của ý thức nhân vật. Bergson cho rằng, chính hoài niệm đã “biến chúng ta thành máy móc và dẫn chúng ta vào một thế giới kịch trường, một thế giới ảo mộng.”[[5]] Thế giới ấy khiến cho những gì vô lý trong thế giới thực lại trở nên không hề vô lý trong thế giới ảo mộng của hoài niệm tạo ra.

Điều lý giải cho câu hỏi được nêu ra ở trên, đó chính là làm sao thời gian có thể tạo ra được những lát cắt và chính những lát cắt ấy lại là những khung cảnh đại diện như là những không gian. Ở đây, khả năng hội nhập hoài niệm vào hiện tại của thời gian trong dòng chảy ý thức của nhân vật đã tạo ra được lý giải cho câu hỏi đó. Theo Bergson, “người ta không thể liệt nó vào một kinh nghiệm dĩ vãng vì mọi người trong chúng ta đều biết mình không thể sống hai lần cùng một khoảnh khắc của đời mình.”[[6]] Chính vì thế, chỉ có thể thông qua sự hội nhập của hoài niệm vào hiện tại thì những khung cảnh của quá khứ mới được dựng nên hay là cảm tưởng cho rằng chúng có đó trong cùng lúc với hiện tại. Và cũng lưu ý thêm rằng, chúng ta nhìn nhận thời gian tạo ra không gian thông qua những khung cảnh được tái hiện, là đặt chúng trong dòng chảy ý thức của nhân vật, còn lúc mà chúng ta nhìn nhận không gian được đối chiếu giữa hai phần của tiểu tuyết thì bản thân “hoài niệm được rọi ra kia chắc chắn là một phó bản của tri giác hiện tại.”[[7]]

Tại sao khi hoài niệm hội nhập với hiện tại thì ranh giới được đánh dấu giữa các không gian (đặc trưng cho mỗi khung cảnh của tuyến truyện) lại trở nên mờ nhòe đi? Chỉ vì một lý do đơn giản, đó chính là khi hoài niệm hội nhập với hiện tại, bản thân các sự kiện được tạo ra dường như đã rơi vào trong một trạng thái shadowy rõ rệt. Vì được hiện lên trong một tính chất mờ ảo như thế, bởi chúng ta rất khó để có thể hình dung lại toàn bộ đặc điểm của những gì đã diễn ra, và thông qua sự nhớ lại đó, chúng ta khó có được một sự chắc chắn đối với điều đáng được tin cậy về phía các kết quả của hoài niệm tạo ra. Ở trên chuyến xe ấy, ranh giới mờ nhòe biểu hiện ở chỗ chúng ta dường như không thể có được một sự kiểm chứng đối với những gì mà ông ấy nhớ lại có đúng thực với những gì đã từng diễn ra như thế hay không. Vì mạch truyện chỉ là việc đưa ra những gì mà ông ấy nhớ lại mà thôi, ngoài ra không có thêm bất cứ một dấu hiệu nào cho ta thấy được những gì ông ta tái hiện nên như thế là sai. Do đó, khả năng của những sự kiện được ông tái hiện nên mờ nhòe đi là rất bình thường, và cũng ở trong tình huống đó thì sự lên ngôi của shadowy là không thể tránh khỏi trong những gì mà ông ấy nhớ lại.

Và thời gian, nó như một cầu nối giữa quá khứ với hiện tại thông qua hoài niệm, hay chính cái cách neo theo thời gian chúng ta đang đi du hành ở đây lại không đảm bảo cho nó có được một tiến trình hẳn hoi. Đứng về phía chủ đích của bản thân nhân vật, trong dòng chảy ý thức của ông ta, thời gian biểu hiện ra như là hoài niệm được quan niệm không khác đi. Còn trong toàn bộ những sự tái hiện từ hoài niệm của phần này tuyến truyện diễn ra bên cạnh phần kia của tuyến truyện thì thời gian lưu chuyển trong cả hai phần của tuyến truyện đã độc lập tạo nên mỗi không gian riêng biệt (về mặt cổ điển của từng tuyến).

Vậy thì cuộc du hành của chúng ta sẽ đi đến đâu? Ở đây, cũng như ông ấy đã khẳng định, ông không biết đi đâu và về đâu, cho nên tương lai của ông trở nên vô định, cứ thế thời gian triển nở vào tương lai nhưng dòng chảy ý thức của ông không tháp nhập được cùng với “áp lực hướng đến tương lai” (chữ của Trần Đức Thảo). Như thế thì cuộc du hành của chúng ta chỉ có thể dừng lại ngang đây, khi chỉ biết quay về với quá khứ thông qua hoài niệm của chính bản thân ông ta. Một sự đi về với quá khứ, chỉ có như thế trong suốt cả hành trình lăn bánh của chuyến xe trâu. Hoài niệm hội nhập hiện tại tạo nên điều đó, điều mà như chúng tôi đã thừa nhận là nó đã tạo được sức hấp dẫn lên chúng tôi. Câu hỏi cuối cùng mà chúng tôi muốn đặt ra, đó chính là, liệu rằng trong cả quá trình hoài niệm hội nhập hiện tại như thế thì cơ sở để tạo nên tính liên tưởng trong khi thực hiện quá trình thông hiểu các sự kiện, cũng như biểu tượng mà hoài niệm tạo ra, có được giữ đúng với tính chất hợp lý của một trật tự nào đó trong ý thức của người ấy hay không? Và nếu như người đó là một nhà văn thì sự trì giữ ấy, nếu có hợp lý thì sẽ hợp lý với một mức độ nào? Ngang đây, kể như cũng nên khép lại một chuyến du hành, dù không xa lắm nhưng cũng đã rất thú vị cùng với “Những đứa trẻ chết già” của Nguyễn Bình Phương.

PHẠM TẤN XUÂN CAO


[1] Henry Bergson (1962), Năng lực tinh thần, Cao Văn Luận dịch, Huế: Nxb ĐH Huế, tr.8.


[2] Henry Bergson, Sđd, tr.104.


[3] Henry Bergson, Sđd, tr.102.


[4] Trần Đức Thảo (1993), Luận lý hiện tại sinh động, Nguyễn Hoài Vân dịch, đăng tải trên trang: triethoc.hnue.edu.vn


[5] Henry Bergson, Sđd, tr.102-103.


[6] Henry Bergson, Sđd, tr.105.


[7] Henry Bergson, Sđd, tr.104.

Huyền thoại cá nhân trong thi ca Hàn Mặc Tử

Leave a Comment
(Tây Thi nàng hỡi bao nhiêu tuổi

Vẻ đẹp mê tơi vẫn nõn nà)

1. Sự xuất hiện của mỹ học tiếp nhận là một sự đứt gãy, sự đối lập nhưng cũng là sự bổ sung với mỹ học sáng tạo. Mỹ học tiếp nhận chủ trương trao quyền cho độc giả, hưởng ứng cho cái chết của tác giả. Nó cũng đặt ra những trăn trở về chân lý, về ý nghĩa đích thực của tác phẩm.

Xét về mặt phương pháp đọc – hiểu văn bản văn học, mỹ học tiếp nhận vẫn chưa cung cấp cho người đọc một phép đọc mới, tỉnh táo hơn và khách quan hơn. Bởi vậy, lý thuyết này còn bỏ ngõ rất nhiều vấn đề: ý nghĩa tác phẩm là do tác giả quyết định hay là do độc giả toàn quyền tri nhận; có phép đọc nào để chiếm lĩnh khách quan tác phẩm, và cách đọc nào trọn vẹn hơn; chân lý của tác phẩm nằm ở đâu và trong tất cả các ý nghĩa mà người đọc lĩnh hội đâu mới là ý nghĩa đúng nhất... Cho nên có thể nói rằng, mỹ học tiếp nhận vẫn là một lý thuyết chứ chưa phải là một phương pháp lý luận – phê bình văn học. Tuy nhiên đóng góp đầu tiên và đóng góp lớn nhất của mỹ học tiếp nhận là đã trả cho người đọc một vị trí xứng đáng trong quá trình tạo nghĩa của văn bản. Và thứ hai, nó góp phần hoàn thiện chu trình của một quá trình văn học. Và thứ ba, nó góp phần mở rộng trường nghĩa cho tác phẩm.

2. Phân tâm học xuất hiện trước lý thuyết tiếp nhận trên dưới 50 năm và tạo ra nhiều khuynh hướng và trường phái phê bình văn học độc đáo: phê bình cổ mẫu, phê bình phân tâm học, phê bình phân tâm học xã hội học, phê bình phân tâm học văn hóa học... Ngày nay, chúng ta có dịp so sánh nguyên tắc và phương pháp luận của phê bình phân tâm học với mỹ học tiếp nhận để rút ra nhiều điểm lý thú. Tuy là một phương pháp phê bình có nguồn gốc từ y học tâm lý nhưng phương pháp và lý thuyết của phân tâm học có điểm tương đồng và bổ sung cho mỹ học tiếp nhận.

Mỹ học tiếp nhận cho rằng tác phẩm không có ý nghĩa tự thân, tác giả không phải là thượng đế. Phê bình phân tâm học mà tiêu biểu là phê bình cổ mẫu, phê bình huyền thoại học cũng cho rằng: bản thân tác giả không cho tác phẩm một ý nghĩa chủ quan nào

cả. Sự ra đời tác phẩm là sự tái hiện “tinh thần nguyên thuỷ” hay “ý niệm cổ sơ” (ancient notion) của cộng đồng thông qua kinh nghiệm cá nhân của tác giả. Đó là điểm chung của cả chúng. Mặt khác, khi mỹ học tiếp nhận tiến hành trao quyền cho bạn đọc để hoàn thiện mạng lưới ý nghĩa cho tác phẩm thì phê bình phân tâm học vừa chú trọng đến đối tượng phân tâm vừa chú trọng đến cảm nghiệm của bạn đọc với ba dạng thức phân tích tác phẩm: (1) vô thức của tác giả; (2) vô thức của nhân vật; (3) vô thức của văn bản. Trong đó, đi tìm vô thức của tác giả tương ứng với mỹ học sáng tạo. Còn việc đi tìm vô thức của nhân vật và của văn bản trong phê bình phân tâm học tương ứng với hành động trao quyền cho bạn đọc trong mỹ học tiếp nhận. Nhưng khi ứng dụng phương pháp phân tâm học vào nghiên cứu văn học, quá trình tri nhận tác phẩm đã thực hiện đầy đủ mô thức nhà văn – độc giả - ý nghĩa. Đó là ưu điểm của phê bình phân tâm học so với mỹ học tiếp nhận.

Như vậy, so với mỹ học tiếp nhận, cách trao quyền cho bạn đọc hoàn thiện ý nghĩa của tác phẩm văn học theo phê bình phân tâm học đã có phương pháp mới hơn. Lấy một hệ lý thuyết có tính khoa học để làm rõ động lực sáng tạo của nhà văn rồi từ đó tìm ra ý nghĩa của tác phẩm chính là đóng góp của phê bình phân tâm học. Bởi vậy, so với lý thuyết tiếp nhận, phê bình phân tâm học tiến gần đến “độ không của phép đọc” hơn. Từ đây phê bình – lí luận văn chương chuyển từ đơn thuần cảm tính sang tính chất khoa học hơn nhưng vẫn không làm mất đi tính biểu cảm, sự tinh tế đặc thù của phép đọc văn chương. Phép đọc phân tâm học còn cung cấp những chỉ điểm tuyệt vời để đi đến lý tưởng thẩm mỹ. Trong khi mỹ học tiếp nhận thì không có khả năng này. Ứng dụng cách đọc kiểu mới này vào tác phẩm văn học, ta thấy rằng đã có thể đưa cái thời phê bình tùy theo cảm giác chủ quan và mang tính hứng thú cá nhân ấy vào viện bảo tàng nguyên lý lý luận văn học. Mặt khác, đọc theo phân tâm học đã giúp người đọc vượt qua được những đánh giá đã có về tác phẩm. Chính những đánh giá của người đi trước đã bao vây người đọc trong những tri nhận sáo mòn mà lý thuyết tiếp nhận khó có thể giải quyết được.

Có một điểm cần lưu ý, phép đọc phân tâm học vừa có thể có khám phá mới về nội dung vừa có khám phá mới về nghệ thuật. Trong khi lý thuyết tiếp nhận, tự sự học và thi pháp học chưa làm được.

Tuy nhiên, không có phương pháp mang tính vạn năng nên phép đọc phân tâm học cũng có hạn chế nhất định. Chẳng hạn, phép đọc phân tâm học dễ dàng dẫn đến quy cách sáo mòn khi khám ý nghĩa của tác phẩm văn học cũng như động lực sáng tạo của nghệ sĩ. Cụ thể hơn, phê bình phân tâm học như hiện nay chỉ chăm chú xem thử tác phẩm có hay không những hình ảnh dục tính rồi quy kết nó là bản năng của con người nhằm phê phán xã hội hay xem xét chủ nghĩa nhân văn. Vấn đề thứ hai mà phê bình phân tâm học chưa làm được đó là tìm ra nguyên nhân tồn tại của từng kiểu phong cách nghệ thuật. Ví dụ, cùng mang ẩn ức chết, song, phong cách nghệ thuật của Edgar Poe khác với Kafka. Cùng mang mặc cảm thần thoại, nhưng Andersen có phong cách nghệ thuật khác với G. Marquez…

3. Có hai lý do để chúng tôi đưa ra những tiền đề lý luận của hai lý thuyết và so sánh chúng với nhau. Đầu tiên, chúng ta cần phải cần phải khẳng định những ưu điểm về mặt phương pháp luận mà lý thuyết phê bình phân tâm học đóng góp cho kho tàng nguyên lý

lý luận văn học. Đây là điều mà từ trước tới nay, ở Việt Nam, chúng tôi vẫn chưa thấy sự đánh giá công bằng dành cho phê bình phân tâm học cũng như hiểu hết giá trị của nó. Thứ hai, chúng tôi sử dụng tiền đề về mỹ học tiếp nhận cũng như sự tương đồng giữa nó và phê bình phân tâm học để thể hiện kiến giải cá nhân trong lịch sử tri nhận về thế giới thi ca của Hàn Mặc Tử. Trong phạm vi bài báo khoa học này, chúng tôi chỉ viết về tâm thế hướng ngã của Hàn Mặc Tử qua hệ hình Không gian thần thoại.

Các nhà phê bình phân tâm học nhất là khuynh hướng phê bình cổ mẫu và phê bình huyền thoại học khi tiến hành giải mã những tác phẩm văn học nghệ thuật đều nhìn nhận rằng: trong mỗi tác giả đều có hai lớp huyền thoại, huyền thoại tập thể và huyền thoại cá nhân. Trong tiến trình lịch sử với nhiều yếu tố, loài người đã không còn giữ được tư duy huyền thoại nguyên sơ. Huyền thoại bị vỡ thành từng mảnh vụn và tái sinh vô cùng vô tận trong chiều sâu tâm thức con người. Theo đó, tự trong mỗi cá nhân chúng ta đều mang ít nhiều những mảnh vỡ huyền thoại cổ xưa. Lập thuyết này về sau được ngành phê bình thần thoại học định danh là mặc cảm thần thoại (Mythology complexes).

Thi ca Hàn Mặc Tử thể hiện một thế giới tâm linh phức tạp và phong phú. Ở đó, ta bắt gặp tâm thức hướng ngã của ông. Tâm thức hướng ngã là một kiểu biểu hiện của bản năng chết (Thanartos) với mong muốn nhờ cái chết thu nhận mọi đau đớn, thanh tẩy những niềm đau và thanh trừng tội lỗi. Cái chết theo như tâm thức nhân loại là sự trở về: về với sự thanh sạch ban đầu, về với bản nguyên, về với sự bảo vệ và là về với giải thoát

khỏi sự tồn tại.

Bản năng chết trong thơ ca của Hàn thường gắn liền với cổ mẫu Mẹ với biểu hiện trực tiếp là kiểu hình Không gian thần thoại. Dạng không gian nghệ thuật này không phải chỉ có ở sáng tác của Hàn Mặc Tử nhưng theo khảo sát của chúng tôi, chưa có nhà thơ nào xây dựng kiểu không gian này với ý nghĩa và tầm vóc như Hàn Mặc Tử. Bởi lẽ, Không gian thần thoại trong thơ ông không chỉ là phông nền mà còn là giá trị tự thân của một biểu tượng ngầm. Bằng phép hội ý tự do của phân tâm học, ta có thể khám phá ra tư duy nghệ thuật của thi nhân.

3.1. Hệ hình Không gian thần thoại trong thơ Hàn Mặc Tử

Không gian chiều sâu trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện rất phong phú. Hiếm có một nhà thơ nào mà cảm thức không gian lại thể hiện đậm nét như thơ Hàn.

Trong thơ Hàn Mặc Tử, ta thường hay gặp khoảng không gian chiều sâu bất tận. Trước hết, không gian trong thơ Hàn Mặc Tử là không gian bất định mang tên là Không gian phiếm chỉ. Không gian này trong thơ Hàn Mặc Tử được gợi lên bởi một loạt các từ phiếm chỉ, có khi là những chỉ từ cũng được dùng với thủ pháp phiếm chỉ hóa không gian: “Tôi vẫn ở đây hay ở đâu/ Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu/ Sao bông phượng nở trong màu huyết/ Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu” (Những giọt lệ) [5,60]; và “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh/ Ai biết tình ai có đậm đà? (Đây thôn Vỹ Dạ) [5,73]; “Khách xa gặp lúc mùa xuân chín/ Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng” (Mùa xuân chín) [5,72]…

“Tôi vẫn ở đây hay ở đâu” câu thơ như một tiếng vọng đang chới với giữa một không gian vô định hình. Trạng ngữ kép “ở đây” và “ở đâu” nói lên sự mất phương hướng, mất định hướng trong tâm thức sâu xa của Hàn. Cả hai trạng ngữ, một phiếm chỉ một cụ thể làm nên một sự hư hao và tô đậm thêm sự choáng ngợp trong tâm hồn nhà thơ. Ở câu sau, trạng ngữ “trời sâu” như xoay vần chủ thể “tôi”, khiến chủ thể thêm chao đảo, ngả nghiêng. Hàn Mặc Tử không viết trời cao mà lại viết “trời sâu”, có phải chăng trời cũng sâu như chính nỗi muộn phiền vô bờ bến của Hàn? Khoái cảm về kiểu không gian chiều sâu này luôn tương ứng với sự nhận thức muộn phiền trước “quan niệm hoàn cảnh” của nhà thơ.

Nhưng kiểu không gian này chưa phải là chủ yếu trong thơ ca Hàn Mặc Tử. Mà chủ yếu, khoái cảm của Hàn lại gắn với ba kiểu không gian khác. Đầu tiên là kiểu Không gian giấc mộng. Hiếm thấy nhà thơ nào xây dựng không gian giấc mộng trong thơ mình nhiều như Hàn Mặc Tử. Trong không gian đó, Hàn Mặc Tử biểu hiện khoái cảm của mình rất mãnh liệt và rất tự nhiên. Đây là kiểu không gian được nhà thơ định danh bằng các định ngữ như “mộng”, “mơ”, “ngàn thế giới”… Ví dụ: “Anh đứng cách xa hàng thế giới/ Ngắm nhìn trong mộng miệng em cười/ Em cười anh cũng cười theo nữa/ Để nhắn hồn em đã tới nơi” (Lưu luyến) [5,45]; “Hương khói ở đâu ngoài xứ mộng/ Cứ là mỗi phút mỗi nên thơ” (Huyền ảo) [5,50]; “Mơ khách đường xa, khách đường xa/ Áo em trắng quá nhìn không ra” (Đây thôn Vỹ Dạ) [5,73]; “Khói trầm lan nhẹ ngấm không gian/ Giây phút buồn lây đến mộng vàng/… Bóng người thục nữ ẩn trong mơ” (Mơ hoa) [5,57]; “A ha! Ta vốn người trong mộng/ Hư thực như là một ý thơ/ Ta đi góp nhặt từng tia sáng/ Và kết duyên tình để ước mơ” (Người ngọc) [5,47]…

Nói theo ngôn ngữ của Bachelard, một nhà Phân tâm học vật chất nổi tiếng, không gian giấc mơ trong thơ Hàn Mặc Tử là một kiểu “mơ lồng trong mơ” [7,236]. Trong những giấc mơ ấy, không gian là nơi ẩn nấp lí tưởng của con người trước những thực tại gây đau đớn cho những ham muốn bản năng của mình. Trước những thực tại của xã hội kìm nén đi ham muốn nguyên thủy, con người luôn luôn bị đau đớn và luôn luôn tìm cách thỏa mãn những ham muốn nguyên thủy ấy. Nhưng càng tìm cách thỏa mãn những ham muốn ấy, thì văn hóa càng lại ràng buộc phải loại bỏ chúng đi. Sự đau đớn ấy là con đường dẫn đến tuyệt vọng [3,14]. Từ tuyệt vọng dẫn đến ám thị triệt tiêu bản năng sống, muốn quay lại về những khởi nguyên, muốn quay về lại vật chất nguyên thủy đã làm nên sự sống. Quá trình về nguồn này, không có ý nghĩa nào khác hơn ngoài ý nghĩa nhằm trốn chạy và tự thỏa mãn bằng cách đẩy những ham muốn ấy về điểm xuất phát của mọi khởi nguyên, về với cái chết để được che chở, dỗ dành.

Cũng quan niệm của hai bậc thầy S. Freud và C. Jung, Bachelard trong công trình Không khí và những mộng mơ đã khẳng định: Ám thị cái chết là một bản năng thường trực của mỗi bản thể tồn tại. Chỉ có ở ám thị muốn chết các bản thể tồn tại mới mong muốn được sự an ủi, sự vỗ về từ không gian chiều sâu.

Không gian chiếm vị trí quan trọng nhất trong thơ Hàn Mặc Tử là Không gian Thượng thanh khí. Kiểu không gian này tồn tại chủ yếu trong những tập thơ cuối đời của Hàn Mặc Tử như: Đau thương, Xuân như Ý, Thượng thanh khí, Cẩm châu duyên… Bởi khoảng không gian chiều sâu này, Hàn Mặc Tử hay gọi là khoảng “Thượng thanh khí”, “Thượng tầng không khí”… Kiểu Không gian Thượng thanh khí của Hàn là kiểu không gian có chiều kích mang tầm vũ trụ.

Nếu trong thơ Huy Cận, cảm thức vũ trụ đem lại sự cô đơn, chới với đến choáng ngợp thì vũ trụ trong thơ Hàn Mặc Tử đem lại cho thi nhân những niềm hoan lạc thậm chí an lạc vì được chở che, bảo vệ. Ví như: “Đang khi màu nhiệm phủ ban đêm/ Có thứ gì rơi giữa khoảng im/ Rơi tự thượng tầng không khí xuống/ Tiếng vang nhè nhẹ dội vào tim” (Huyền ảo) [5,50]; “Cho ta nhận lấy không đền đáp/ Ơn trọng thiêng liêng xuống bởi trời” (Sầu vạn cổ) [5,52]; “Ra không gian là vượt hẳn thượng tầng/ Tấp tới bến ở ngoài kia vũ trụ/… Hồn hỡi hồn, lên nữa quá thinh gian” (Ngoài vũ trụ) [5,66]; “Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng/ Cho bay lên hí hửng với ngàn khơi” (Say trăng) [6,68]; “Nhớ khi xưa ta là chim phượng hoàng/ Vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất” (Phan Thiết! Phan Thiết!) [5,69]; “Dồn qua mau cho lút mức hư không” (Vầng trăng); “Thượng thanh khí tiết ra nguồn tinh khí” (Đừng cho lòng bay xa) [5,78]…

Trong thơ Hàn Mặc Tử còn có thêm một loại không gian của các tôn giáo Phật – Lão – Thiên Chúa. Kiểu không gian này cũng là một dạng thức khác của không gian chiều sâu trong thơ Hàn Mặc Tử mà chúng tôi tạm gọi là kiểu Không gian điển tích. Kiểu không gian này luôn luôn gắn với cảm thức dung hợp các giáo lý tôn giáo khác nhau của Hàn Mặc Tử. Chẳng hạn: “Lụa trời ai dệt với ai căng/ Ai thả chim bay đến Quảng Hàn” (Cuối thu) [5,51]; “Ta ném mình đi khắp gió trăng/ Lòng ta tản khắp bốn phương trời/ Cửu trùng là chốn xa xôi lạ/ Chim én làm sao bay đến nơi” (Ghen) [5,61]; “Phượng Trì! Phượng Trì! Phượng Trì/ Phượng Trì!/Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu” (Thánh Nữ đồng trinh Maria) [5,76]; “Nhớ khi xưa ta là chim Phượng hoàng/ Vỗ cánh bay chín tầng trời cao nhất/ Bay từ trời Đao Ly đến trời Đâu Suất/… Nhưng phép lạ có một vì tiên nữ/ Hao hao như nường nguyệt cõi Đào Nguyên” (Phan Thiết! Phan Thiết!) [5,69]; “Đêm nay đại yến Lâm Xuân Các/ Điêu Thuyền đàn khúc Tề Tuyên Vương” (Mơ Duyên) [5,55]; “Thượng thanh khí tiết ra nguồn tinh khí/ Xa xôi đời trăng mọc nước Huyền Vy/ Đây Miên Trường, đây Vĩnh Cửu, Tề Phi” (Đừng cho lòng bay xa) [5,77]…

Kiểu Không gian gian điển tích là kiểu không gian tôn giáo được nối tiếp và vay mượn từ không gian huyền ảo của thần thoại cổ đại. Tôn giáo thật sự chỉ là cái bóng nối dài của thần thoại. Nó được ươm mầm trong tính chất của nghi lễ ma thuật cổ xưa mà thần thoại cổ đại còn lưu lại. Sau khi thần thoại cổ đại rạn vỡ - hệ thống tôn giáo từ các mảnh vỡ thần thoại ban đầu đã phát triển thay thế cho nó. Đó chính là nguyên nhân mà mỗi tôn giáo lại thu vào trong mình nhiều hồi cố của thần thoại cổ xưa: Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Đạo giáo,… Cái mà ta chú ý trong kiểu Không gian điển tích trên là ở chỗ, những địa danh mà Hàn Mặc Tử nêu lên đều là nơi tồn tại của Kiểu hình nhân vật ý niệm mang tính năng phù trợ. Đó chính là tâm thế cầu mong sự chở che, giải thoát của ông.

Nếu như kiểu Không gian phiếm chỉ luôn luôn gắn với khoái cảm muộn phiền và đau đớn; kiểu Không gian trong mộng gắn với tâm thế chạy trốn thực tại đau đớn và kiểu Không gian Thượng thanh khí luôn gắn liền với những khoái lạc, thậm chí là an lạc thì kiểu Không gian điển tích này lại gắn liền với khoái cảm ngưỡng vọng được giải thoát của Hàn. Chúng ta có thể nhận ra rằng, trong khi xây dựng những kiểu không gian chiều sâu như vậy, Hàn Mặc Tử thường sử dụng một lớp động từ mạnh và tính từ mạnh để diễn đạt những khoái cảm và ngưỡng vọng ấy: ngây ngất, sáng láng, thơm tho, ngất ngư, sảng sốt khoái lạc, hoan hảo, hoan lạc, mê mẩn, khoan khoái, ngọt ngào, tê mê, đê mê, rên rỉ, chếnh choáng, tha thiết, ràng rịt, say sưa, rào rạt, ngả ngớn, mênh mang, phất phới, thanh thoát, náo nức, khát khao, nồng nàn… Hệ hình Không gian thần thoại trong thơ Hàn Mặc Tử là một hình thái không gian trùng phức – gắn liền với não trạng tư duy cổ xưa nhất và cũng đặc sắc nhất của nhân loại. Có nhiều ý kiến giải thích nguyên nhân ra đời của không gian thơ Hàn Mặc Tử: có ý kiến nghiêng về bệnh tật như Trần Thanh Mại, có ý kiến nghiêng về cấu trúc thi pháp như Chu Văn Sơn, có ý kiến trung hòa như Đỗ Lai Thúy. Tất cả các cách nhìn đó tuy có lý trong một chừng mực nhưng lại không thể giải thích rõ được cội nguồn sáng tạo của thi nhân.

3.2. Giải phẫu phân tâm

Nghiên cứu Không gian thần thoại trong thơ Hàn Mặc Tử hay trong thần thoại cổ nhất thiết ta phải tìm được biểu tượng liên quan và các nghi lễ song hành đã hình thành nên thần thoại để nó soi chiếu vào văn học. Hệ hình không gian thơ Hàn Mặc Tử được triển khai theo quan hệ liên đới với biểu tượng ánh sáng. Vì tư duy nguyên thủy mang tính thay thế đồng nhất – nên chúng tôi, phân chia lớp nghĩa của biểu tượng ở từng mặt phù hợp với luận điểm. Ví dụ, máu trong thơ Hàn mang trong mình hai giá trị: quan niệm linh hồn và nghi lễ hiến tế. Biểu tượng chim (bồ câu – phượng hoàng) của thơ Hàn vừa là hình thức đồng nhất vật tổ lại vừa liên quan đến quan niệm phiêu du linh hồn của người nguyên thủy [1,467]…

Nhìn vào hệ thống sáng tạo của Hàn Mặc Tử, ta thấy thơ ông ngập tràn ánh sáng. Ánh sáng trong thơ Hàn được biểu hiện ở dạng trực tiếp (nắng, hào quang…) và gián tiếp (từ sức gợi của hình ảnh và biểu tượng như trăng, sao…). Đặc biệt ánh sáng có mối quan hệ với Không gian thần thoại với ý nghĩa tạo thành một con đường tâm linh. Đó là lý do tại sao thơ Hàn Mặc Tử có cảm thức rõ rệt về trăng sao và ánh sáng mạnh mẽ như vậy. Trong thời gian lâm bệnh, theo Trần Thanh Mại, bạn thân Hàn Mặc Tử, nhà thơ đã chết đi sống lại ba bốn bận. Và mỗi lần như vậy đều có những ý thơ lạ lùng như lối viết mà H. Bergson gọi là “tự động tâm linh”.

Những ý thơ lạ ấy luôn luôn bộc lộ niềm hoan lạc của Hàn. Đặc biệt, nó gắn liền với kiểu Không gian Thượng thanh khí và Không gian điển tích. Trong không gian ấy, Hàn Mặc Tử thật sự được vỗ về, dỗ dành và có cảm giác hoan lạc lẫn sự an toàn.

Đó là cảnh hồn lìa khỏi xác, hồn từ trên cao nhìn xuống dương gian: “Anh đã thoát hồn anh ngoài xác thịt/ Để chập chờn trong ánh sáng mông lung” (Sáng láng) [5,61]; “Rồi hồn ngắm tử thi hồn tan rã/ Bốc thành âm khí loãng nguyệt cầu xa/ Hồn mất xác hồn sẽ cười nghiêng ngả/ Và kêu rên thảm thiết suốt bao la” (Hồn lìa khỏi xác) [5,54].

Cũng có cảnh hồn bay vùn vụt không biết về đâu: “Vì không giới nơi trầm hương vắng lặng/ Nên hồn bay vùn vụt tới trăng sao/ Cả hơi hám muôn xưa theo ám ảnh/ Hồn trơ vơ không biết lạc về đâu/ Và vướng vất phải muôn ngàn tinh khí lạnh/ Hồn mê man bất tỉnh một hồi lâu” (Hồn lìa khỏi xác) [5,54].

Và hồn được tắm gội trong nguồn Ánh sáng tịnh khiết: “Ta ước ao đầu đội mũ triều thiên/ Và tắm gội ở trong nguồn ánh sáng” (Ngoài vũ trụ) [5,84]. Khoa học tự nhiên cũng từng nghiên cứu những hiện tượng xảy ra như Hàn. Như người có khả năng tiên tri, những hiện tượng thoát hồn… Bác sĩ Raymond Moody trong cuốn Đời sau và bác sĩ Melvin Morse trong cuốn Được ánh sáng biến đổi đã nêu lên 4 trường hợp mà ta bắt gặp trong thơ Hàn như:

- Hồn lìa khỏi xác và nhìn thấy người thân than khóc bên xác mình.

- Hồn bay trong không gian âm u với tốc độ kinh hồn, băng qua những tầng cao tối thượng.

- Hồn thấy ánh sáng an lành, thấy mình giữa trăng sao sáng chói.

- Và sau khi đằm mình vào nguồn sáng thì các trường hợp đều thay đổi như khả năng cảm thụ nhanh nhạy về những vùng tâm linh bí ẩn…

Mối quan hệ giữa Không gian thần thoại với Ánh sáng ở trong thơ Hàn Mặc Tử thực chất là mối quan hệ đồng nhất mang ý nghĩa khởi sinh. Vì ánh sáng trong tư duy biểu tượng của người cổ đại được đồng nhất với không gian. Cả ánh sáng và không gian thực chất là con đường – con đường đi vào thế giới diệu kỳ có thể thanh tẩy nỗi đau và ban lại sự sống ban đầu. Thần thoại các dân tộc da đỏ châu Mỹ và ở các bộ tộc châu Phi kể rằng chính Ánh sáng đã đẻ ra Không gian và Thời gian [1,15]. Chúng ta thấy rằng, trong thần thoại cổ xưa cũng như trong truyện kể tôn giáo, các vị thần thánh đều gắn liền với Ánh Sáng. Chẳng hạn, không phải ngẫu nhiên mà vua của các vị thần trên đỉnh Olempus, thần Zeus lại mang trong mình thuộc tính của ánh sáng: sức mạnh của sấm chớp; khi đi tự tình thì thường hóa thân thành các đối tượng có ánh sắc như con bò trắng, cơn mưa vàng… Trong truyền thuyết của Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Do Thái thì những vị minh quân, thánh chúa, võ tướng oai hùng hay những bậc danh nhân hiền triết đều được sinh ra bằng việc ánh sáng đi vào tử cung của người phụ nữ và chết đi trong sự bao bọc của ánh sáng. Sự tích ra đời của Lý Công Uẩn, hay sự tích ra đời của Thành Cát Tư Hãn của Mông Cổ đều là một type như vậy. Với quan niệm ma thuật – nghi lễ, thần thoại cổ đại làm nên một định thức: Ánh Sáng = Thần thánh, còn khi thần thoại đổ vỡ, hồi quang của nó trong tôn giáo và tín ngưỡng lật ngược lại định thức ấy: Thần thánh = Ánh Sáng. Do vậy, ở kiến trúc cung vi hay lăng tẩm vua chúa quan lại thời xưa, phải trổ một cái lỗ bằng cái chén sao cho góc khúc xạ của ánh mặt trời ban trưa phải vuông góc với huyệt mộ để ánh sáng mặt trời cho người chết một sự tái khởi sinh. Quan niệm ánh sáng là khởi sinh cũng được người Hy Lạp nguyên thủy nhân cách hóa bằng cuộc sinh nở thần kỳ: nữ thần Athéna được sinh ra từ trong đầu phụ vương của các vị thần. Như đã thống kê một loạt các tính từ mạnh tô đậm khoái cảm của Hàn trong hành trình vào Không gian thần thoại cũng là về với Ánh Sáng ở trên đã chứng minh tâm thế khoái lạc nhờ sự thanh tẩy và khởi sinh lại ở tâm thức thi nhân bởi tâm lý muốn quay về với trạng thái bào thai trong bụng Mẹ.

Kinh nghiệm về Mẹ của các dân tộc Viễn Đông còn lưu lại ở sự đồng nhất Mẹ = Ánh Sáng như chúng tôi đã dẫn chứng ở trên. Những chứng cứ trên cho phép ta kết luận rằng, với cổ mẫu Mẹ trong thơ Hàn, ta có đẳng thức: Không gian thần thoại = Ánh Sáng = Bụng Mẹ. Cuối cùng để có thêm sự tin cậy cho luận điểm này, chúng ta đến với thành tựu quan trọng của Roberson Smith về sự khảo sát ám thị người mẹ in dấu trong ngôn ngữ các dân tộc Hypoum ở châu Phi, các dân tộc cổ ở bán đảo Scandinavi và người Celter cổ ở Tây Âu. Điều đáng lưu ý là ông cho biết từ nguyên của từ Ánh sáng trong ngôn ngữ các dân tộc đó liên quan các đặc trưng chỉ có ở người mẹ - giới nữ: Ánh sáng trùng âm với “bào thai” (dân tộc Celter cổ), với “tử cung” (dân tộc cổ đại ở Scadinavi) thậm chí là “âm vật” (dân tộc Hypoum ở châu Phi) [6,189]. Đặc biệt, ở trang 93 cuốn Giải phẫu sự phụ thuộc do nhà xuất bản Tri thức ấn hành năm 2008, Takeo Doi – một nhà tâm lý học Nhật Bản, khi giải thích từ amae (vốn là một chìa khóa để ông giải phẫu tính cách Nhật Bản) cho rằng: gốc từ ama nguyên nghĩa liên quan đến tính ấu thơ và tình yêu với người mẹ. Và ông cho rằng, gốc từ ama có nguồn gốc từ Amaterasu Omikami – nữ thần Thái Dương, tổ mẫu của người Nhật. Đến đây, ta có quyền tin rằng: trong xã hội thái cổ có tồn tại niềm tin Ánh Sáng = Bụng Mẹ.

Niềm tin này in dấu trong sự hình thành motif truyện cổ dân gian. Épunky, người cộng sự nghiên cứu phân tâm folklore của Kroffsond đã tiến hành phân tích rằng: các hình ảnh chui vào hang núi, vào bụng cá, vào rương hòm… trong truyện cổ dân gian thực chất là khát vọng quay về trạng thái bào thai của nhân loại [6,423]. Trong công trình Văn hóa nguyên thủy, E. Tylor cho biết người Roma cổ đại và người Scadinavi tổ chức lễ hội đốt lửa mùa thu và mùa hè. Họ tiến hành nghi lễ ném những con búp bê vải hay những con rối vào đống lửa giữa thần điện. Épunky đã phát biểu sắc sảo và toàn diện quan niệm về motif và biểu tượng văn hóa dân gian cùng với nghi lễ trong quan niệm cổ mẫu: nghi lễ mà Tylor nêu ra thực chất chỉ là niềm tin về vai trò ánh sáng khởi sinh của con người sau khi chết. Ông cho rằng với cảm thức ngôn ngữ như vậy, nghi lễ của người Roma và Scadinavi thực chất là về với trạng thái bào thai [6,424].

Cổ mẫu Mẹ như là một sự mật định của tạo hóa cho bản thể con người. Dù thuộc về kinh nghiệm cá nhân hay kinh nghiệm tập thể, cổ mẫu Mẹ vẫn là hằng số bất di bất dịch trong mỗi chúng ta. Và thơ Hàn Mặc Tử là sự thể hiện cổ mẫu Mẹ gián tiếp bằng nguyên lý tính Mẫu: sự ngưỡng vọng về thời kỳ bào thai, nơi mà con người không phải chịu sự quy định tổn thương đến bản nguyên của mình.

Qua những điều trình bày trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy Hàn Mặc Tử sử dụng biểu tượng vô hình bằng sự liên kết các ý hướng tự do. Cái biểu tượng mà Hàn sử dụng như đã nói không phải là vật chất hữu hình mà là vật chất vô hình như Bachelard đã quan niệm. Không gian thần thoại mà chúng tôi chỉ ra đây chính là phân tâm học về không khí hay không gian theo quan điểm của Bachelard. Còn trong giản đồ hình ngôi sao các nguyên tố theo quan điểm của giả kim thuật, không gian – không khí nằm ở vị trí cao nhất đối cực vị trí thấp nhất của đất. Bởi lẽ, không khí là nguyên tố duy nhất không có hình dạng vật chất cụ thể. Giới giả kim thuật lấy nó để biểu trưng cho thế giới tâm linh, và phẩm tính thần thánh cũng như sự giải thoát. Không khí có thể dễ dàng chuyển hóa thành lửa hoặc thành nước cho nên không khí là biểu trưng cho sự sống ở dạng phôi thai. Ta thấy cảm thức ngôn ngữ Việt Nam đến bây giờ vẫn xem “trời” như là một khái niệm thần thánh, hay là một sự giải thoát như trong cách nói: “Cầu trời…”, “Về trời”…

Nhưng cái đặc biệt của không gian trong thơ Hàn Mặc Tử không giống quan niệm của Bachelard. Điểm chung là không gian trong văn học của Bachelard và không gian trong thơ Hàn Mặc Tử đều gắn với những mộng mơ. Nhưng giấc mơ của Hàn Mặc Tử lại mang tính xâu chuỗi theo kiểu liên kết tự do các ý hướng thành một vòng tròn như quan niệm của các nhà phân tâm folklore. Các ý hướng tự do qua các kiểu không gian trong thơ Hàn chính là các ngưỡng vọng mà chúng tôi đã nêu ở trên. Ở đây, xin phép được nhắc lại để hình dung rõ hơn: Trạng thái muộn phiền à Trốn chạy à Chấp nhận à Khát vọng giải thoát. Như vậy, các mộng mơ của Hàn Mặc Tử nối tiếp nhau thành một vòng tròn đã tạo thành chuỗi tròn dấu ấn biểu tượng, mà nói đến tận cùng bản chất là biểu tượng ngầm.

4. Như vậy, chúng ta đã làm một chuyến du hành vào tâm thức Hàn Mặc Tử. Không có gì để nghi ngờ rằng: Hàn Mặc Tử mang trong mình bản năng chết với khát vọng nhờ cái chết khỏa lấp, thanh tẩy mọi niềm đau với bao nhiêu hân hoan, ngóng chờ, đê mê và ngưỡng vọng.

Hệ hình Không gian thần thoại trong thơ ca Hàn Mặc Tử luôn gắn liền với Ánh sáng. Hành trình của thi nhân đi vào ánh sáng, đi vào hệ không gian trùng phức ấy là hành trình quay về với trạng thái bào thai, quay về với khởi nguyên sự sống. Nếu nhìn từ phương diện cổ mẫu Folklore, Ánh Sáng – Thanh Khí trong thơ ông lại là biến thể của motif – nghi lễ cổ sơ: nghi lễ mở mắt, nghi lễ thử thách trong nghi lễ thụ pháp – trưởng thành. Chẳng hạn, ở truyện Sọ dừa, ta thấy có motif nhân vật đội lốt xấu xí và motif chui ra từ bụng cá. Nếu truy nguyên gốc của motif này ta sẽ thấy có từ trong nghi lễ: nam giới tới tuổi trưởng thành sẽ chịu thử thách bằng cách nhắm mắt lại, đi vào một cái hang tự tạo có cạm bẫy để thử thách, khi vượt qua thử thách mới được mở mắt ra – đó là sự hiện thực hóa ý niệm con người được Ánh Sáng khải thị [1], [6]. Hoặc có khi là nam giới đủ tuổi trưởng thành trong xã hội nguyên thủy phải khoác lớp da của vật tổ sau đó đi vào rừng chịu thử thách… Trong cổ tích ta còn tìm thấy ở các motif khác như chui vào rương, chui vào bị, đội lốt… Mặt khác, các biểu thức biểu hiện ánh sáng của Hàn lại là biến thể của motif cuộc hôn phối - sinh nở thần kì. Hầu như truyền thuyết ở dân tộc nào cũng có những câu chuyện về những danh nhân, anh hùng, những anh hùng kiệt xuất đều được hôn phối với ánh sáng và được sinh ra bởi ánh sáng [1]. Đó là những mảnh vỡ của huyền thoại nhân loại được sống lại từ kinh nghiệm cá nhân của nhà thơ.

Như vậy là các cứ liệu thực tế trong lâu đài nghệ thuật của Hàn Mặc Tử và các cứ liệu thực tiễn – lí luận liên quan mà chúng tôi đưa ra trong quá trình lập luận đã chứng minh tâm thức hướng ngã của thi nhân.

Vô thức như Freud nói thật sự là nguồn gốc sáng tạo của văn học. Bởi vô thức chỉ như một giây phút thôi miên, một cái vẫy chào từ hư vô xa thẳm, nhưng trong những giây phút đó mới có tác phẩm xuất thần, có giá trị nghệ thuật tiến gần nhất tới lý tưởng thẩm mỹ xứng gọi là những trang viết để đời của nhà văn. Nhưng khốn nỗi thay, nhìn nhận vô thức cũng như bắt buộc phải thị kiến tiếng gọi tâm linh trong sáng tạo văn học lại là một vấn dề phức tạp mà không phải ai cũng có khả năng thực hiện. Với những nhà văn khác, xem xét yếu tố vô thức đã là khó. Đối với Hàn Mặc Tử cái khó càng nâng lên gấp trăm nghìn lần. Hoài Thanh đã nhận định đúng, thơ Hàn đã thoát ra sự suy xét tầm thường của nhân gian.

Viết bao nhiêu mà chúng tôi vẫn cứ cảm thấy như mình chưa nói được điều gì. Vì sự thật, thơ Hàn Mặc Tử đọc bao nhiêu cũng như chưa đọc, một hồn thơ chỉ có thể ý hội mà không thể ngôn truyền. Cho nên, tôi viết bài này không có tham vọng soi sáng vào thâm cung nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử bằng phân tâm học, mà tôi chỉ chỉ ra những biểu hiện hình thức hiện hữu trong thơ Hàn Mặc Tử và nêu cách nhìn tâm đắc của mình về cội nguồn sáng tạo của thi nhân.

Ngót 70 năm về với cõi thượng thanh khí, nhưng Hàn Mặc Tử đã để lại cho hậu thế một gương mặt thi ca phi phàm: “Người thơ phong vận như thơ ấy/… Gò má riêng thôi cũng đỏ hườm”…./.

NGUYỄN HỮU TẤN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. J. E. Cirlot (1990), A dictionary of symbols, New York, America

2. N. Frye (1939), Anatomy of Criticism, New York, America

3. S. Freud (1923), Civilization and Its discontent, Leipzig

4. C. G. Jung (1996), The Archetypes and the Collective Unconscious, London, England

5. Kiều Thu Hoạch (2009), Tuyển tập thơ ca Hàn Mặc Tử, NXB Văn nghệ Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh

7. Oclean Kroffsond, (1978), From Legendary to Unconscious, New York, America

8. Đỗ Lai Thúy (2002), Phân tâm học và nghệ thuật, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội

9. Đỗ Lai Thúy (2009), Bút pháp của ham muốn, NXB Tri Thức, Hà Nội

Để hiểu thêm bản sắc văn hóa của người Tây Nguyên qua sử thi Đam San

Leave a Comment
Với khối lượng đồ sộ lên đến hàng trăm, sử thi Tây Nguyên là "bộ bách khoa thư" khổng lồ hiếm có về thời cổ của các dân tộc Tây Nguyên nước ta. Người Ấn Độ nói: "Cái gì không có trong hai bộ sử thi Mahabharata và Ramayana thì không thể tìm thấy bất kì ở đâu trên đất nước Ấn Độ", còn chúng ta cũng có thể tự hào mà nói: "Cái gì không có trong sử thi Tây Nguyên thì không thể tìm thấy trên đất Tây Nguyên". Nếu như Iliat, Odixe- những tác phẩm anh hùng ca vĩ đại của Hi Lạp ca ngợi lí tưởng vinh quang và chiến trận thì những anh hùng ca Tây Nguyên lại hướng về lí tưởng đấu tranh chống lại những tập tục cũ, lạc hậu, chống lại thần quyền và các thế lực áp bức bóc lột vừa nảy nở trong cuộc sống của bộ tộc. Nhưng trên hết, ở tác phẩm sử thi vẫn là sự hiện diện của những con người, những nhân vật cá tính và bản lĩnh sống trong mỗi trang giấy, qua hơi thở cuộc sống, qua lời kể và tiếng cồng chiêng dậy núi đồi...Nói cách khác, qua sử thi, người đọc hiện đại có thể tìm thấy bản sắc văn hóa của các tộc người Tây Nguyên. Chương trình sách giáo khoa phổ thông Ngữ văn 10 trích dẫn "Chiến thắng Mtao Mxây" trong sử thi nổi tiếng Đam San. Để có thể hiểu hết những giá trị của tác phẩm, nhất định phải nắm được những đặc trưng văn hóa ở nơi đây. Bản sắc truyền thống của người Tây Nguyên đã đi vào những trang sử thi sống động của một thời kì lịch sử xa xưa của dân tộc tồn tại trong nếp ăn ở sinh hoạt hàng ngày của họ. Đó là những tục lệ, lễ nghi không thể thiếu, là nét văn hóa khá độc đáo của đồng bào Tây Nguyên. Những tác phẩm văn học dân gian như sử thi là kho tàng quý giá lưu trữ lại suốt quá trình lịch sử đồng bào. Tìm kiếm trong các sử thi, anh hùng ca có thể nhận biết được một số tập tục, lễ nghi, văn hóa ứng xử, sinh hoạt...

Tục nối dây- chuê nuê của người Tây Nguyên

Đây là một tập tục đã tồn tại từ lâu đời của người Tây Nguyên. Khi người vợ hoặc chồng chết đi thì người còn lại phải lấy người trong dòng họ để tiếp tục cuộc sống vợ chồng, với quan niệm cho rằng có thực hiện đúng "chuê nuê" mới giữ trọn dòng giống của gia đình, của dân tộc, con người mới không bị lẻ đôi. Chẳng hạn như trong khan Đam San của người Êđê, tục lệ này thể hiện rất rõ. Khi bà của H'Nhí chết thì H'Nhí phải là người "nối dây" lấy ông của mình làm chồng, hoặc khi Đam San chết và đầu thai vào người chị H'Âng sinh ra Đam San cháu thì H'Nhí và H'Bhí phải tiếp tục nối dây với Đam San cháu.

Tục cột rượu treo chiêng

Phong tục này thể hiện tính hiếu khách của người Tây Nguyên và cũng là lễ chào đón một sự kiện trọng đại nào đó. Trong khan Đam San, tục cột rượu được thể hiện ở việc gia đình H'Nhí chuẩn bị cưới chồng cho chị em nhà H'Nhí và H'Bhí.

Cột rượu còn là một tục lệ mà người Tây Nguyên dùng để cầu may cho khách, hoặc người thân trong gia đình. Đây là một hình thức sinh hoạt không thể thiếu trong nếp sống văn hóa hàng ngày.
Chiêng là một loại nhạc cụ quí giá có ý nghĩa trong đời sống tinh thần. Nó chứng minh sự giàu có của một gia đình. Nhà nào có nhiều chiêng, nhiều ché tức, ché tang thì được coi là giàu mạnh. Ngoài Đam San, trong các sử thi khác như Xing Nhã, Đăm Yông, hay Y Ban...hình ảnh của ché rượu và tiếng chiêng dường như tôn thêm vẻ đẹp văn hóa, cho cái riêng của con người Tây Nguyên.


Tiếng chiêng được diễn tấu bằng cách gõ chiếc dùi bọc bằng cao su, hoặc dùi gỗ mềm không bọc để tạo ra tiếng chiêng khác nhau. Trong khan Đam San có diễn tả âm thanh này một cách sống động, tựa hồ như đưa người ta quay về với một thời cổ đại oai hùng mang sắc màu thần thoại: "tiếng chiêng lan ra khắp xứ ,... tiếng chiêng luồn qua sàn nhà, lan xuống dưới đất !..." và: "tiếng chiêng vượt qua mái nhà vọng lên trời...". Phải chăng, chính những tục lệ văn hóa độc đáo này mà sử thi Tây Nguyên trở nên có ý nghĩa về cả lịch sử lẫn một nền văn học nghệ thuật còn nhiều bí ẩn cần khám phá? Và phải chăng, chàng trai Đam San bỗng trở thành một người anh hùng đầy bản lĩnh bởi tiếng chiêng vang dậy núi rừng...

Tục lệ cưới hỏi và văn hóa ứng xử

Theo tập tục này thì đối với họ người con gái là quý nhất, là người nắm giữ vai trò chủ chốt trong gia đình. Người M Nông có câu hát: "Người vợ giữ nhà, thực hiện những việc lớn lao nguy hiểm...của cải trong nhà do người phụ nữ trông coi. Người không có vợ như nhà không có nóc, như gà không có chuồng. Vậy con gái là quý nhất"...Có lẽ vì vậy mà trong hôn nhân người con gái sẽ làm chủ đối với việc cưới hỏi (hoặc nói theo cách của người đồng bào là bắt rể), khác hoàn toàn phong tục của người Kinh.


Tìm hiểu sử thi Đam San cũng thấy xuất hiện hình thức cưới hỏi này. Chẳng hạn như cách nói đối đáp giữa nhà trai, nhà gái với thái độ khiêm nhường khi chuẩn bị cho việc hôn nhân. Trong chi tiết H'Âng chị của Đam San mời khách ăn cơm bằng một cách nói, tự chê cơm rượu của nhà mình: "Mời các anh ăn cơm cho. Cơm tôi có mùi mốc, nước tôi có mùi hôi, thịt gà diều bỏ rơi, và người nấu là một con vẹt, thật là một con vẹt diều tha..." và ngược lại khách cũng chỉ ăn một ít rồi nói: "vì ở nhà chị nên tôi mới ăn nhiều như vậy. Còn ở nhà tôi, một quả dưa chuột tôi ăn đến ba năm. Một quả dưa hấu tôi ăn đến ba đời"...Nghệ thuật phóng đại trở thành khúc biến tấu độc đáo nhất để người Tây Nguyên thể hiện đời sống văn hóa của mình, qua những pho sử thi mang bề dày lịch sử. Hoặc chỉ đơn giản trong những lời đối đáp trên, nghệ thuật này khiến người ta hiểu rằng: phải chăng đó là sự thử thách tình cảm chân thành bằng cách tự mình "bôi nhọ" vào mặt mình? Sau khi khách đã giữ lễ một cách khiêm tốn thì bấy giờ gia chủ mới thết đãi khách một bữa cơm thịnh soạn bằng rượu quý " đen thắm, thứ rượu chôn dưới đất đã tám năm..." và cuối cùng mới tiến hành lễ cột rượu - treo chiêng của gia chủ nhằm bày tỏ lòng hiếu khách. Bên cạnh đó, trong tục lệ cưới hỏi còn có sự hiện diện của chiếc vòng đồng. Đây là tín vật có ý nghĩa rất thiêng liêng, trọng đại mang tính chất đính ước, một lời giao kết để làm tin giữa nhà trai và nhà gái. Trong khan Đam San và các sử thi, truyện cổ tích của người Tây Nguyên thường xuất hiện tục lệ này. Những gì được người Tây Nguyên phản ánh qua hình thức văn học nghệ thuật, đều xuất phát từ cuộc sống, và nếp sinh hoạt văn hóa cho nên những tục lệ này tồn tại trong các sử thi, cũng là điều dễ hiểu.


Dưới góc nhìn văn hóa, chúng ta có thể tiếp cận gần hơn tới giá trị đích thực của tác phẩm văn học. Chính sự kết tinh của một nền văn hóa, của những giá trị văn hóa đã tạo nên phong cách riêng độc đáo, đậm đà cho người Tây Nguyên. Hay nói cách khác "truyền thống văn hóa" Tây Nguyên là sự kết tinh của phong tục tập quán, lối sống - sinh hoạt, và cũng là cái nôi của sự hình thành, phát triển chất trí tuệ của người Tây Nguyên trong cộng đồng người Việt nói chung.


Bàn về đời sống văn hóa quả không đơn giản, vì vốn dĩ, bản sắc văn hóa rất phong phú, đa dạng, mang nhiều giá trị về đời sống vật chất lẫn tinh thần. Với người Tây Nguyên, như từng có đề xuất phương án lí giải, phải chăng, đó là một nền "văn hóa rừng" theo nghĩa: "rừng không chỉ là tài nguyên, mà rừng là tất cả, là toàn bộ cuộc sống của họ, là chính bản thân họ"... Rừng là không gian sinh tồn và còn là thời gian sinh tồn của người Tây Nguyên. Chính điều này đã tạo nên những trang sử thi của một thời cổ đại oai hùng với lí tưởng thần thánh. Đam San là vẻ đẹp, là niềm tự hào của người Êđê nói riêng và các tộc người trên dãy núi Trường Sơn nói chung...


Với những gợi mở của vấn đề, chắc hẳn, việc tiếp cận đoạn trích được giới thiệu trong nhà trường và tác phẩm đặc sắc Đam San sẽ có thêm một hướng đi mới.

Trần Hương Giang

Chuyện đời thường vậy thôi trong "Nhạn", tác giả Mori Ogai

Leave a Comment
Có thể nói, những ai sống trong cuộc sống vội vã, gấp gáp có lẽ sẽ không chọn văn học Nhật cho những phút thư giãn ít ỏi của mình. Với cách kể chuyện từ từ, dàn trải, mô tả những chi tiết nhỏ nhoi đời thường, không có những bí ẩn giật gân để người đọc gặp bất ngờ ở chương cuối, không thắt không mở. Nhưng có lẽ, nếu ai có đủ kiên nhẫn để đọc một tác phẩm văn học của xứ sở hoa anh đào này, sẽ có những trải nghiệm vô cùng thú vị. chính vì thế mà trong số rất nhiều tác phẩm văn học, tôi thường ưu ái dành cảm tình cho văn học nhật hơn cả.

Chưa được tiếp xúc nhiều với nền văn hóa của đất nước này, nhưng qua các tác phẩm, ta có thể hình dung được phần nào đời sống, con người và thiên nhiên nơi miền đất ấy. Thông qua cuộc đời của nhiều nhà văn Nhật Bản, ta biết chứa đựng trong vẻ ngoài giản dị bình lặng là một nội tâm dậy sóng và đau đớn với cuộc đời, với số phận của con người. Khai thác đề tài khá phổ biến, nhưng lại để lại những dư âm mạnh mẽ là tác giả Mori Ogai với tiểu thuyết Nhạn. Một câu chuyện đời thường, dung dị nhưng để lại nhiều vương vấn trong lòng người đọc.


Okada là một chàng sinh viên điển hình, đẹp trai, được mọi người quý mến và bà chủ dãy trọ luôn miệng khen ngợi đã đem lòng yêu mến một cô gái khi chỉ mới gặp mặt tình cờ trên con dốc Vô duyên. Chàng không biết rõ thân phận nàng, chỉ là đi qua, nhìn vào ô cửa sổ ngôi nhà tĩnh mịch đó, nhìn thấy bóng hình người con gái lặng lẽ đó, thế là đem lòng tương tư. 


Theo như lời người kể chuyện – Nhân vật Tôi, thì Okada sẽ chẳng bao giờ biết được thân phận và hoàn cảnh của cô gái, mà biết cũng chẳng để làm gì vì cuối cùng anh chàng cũng đi du học, chỉ là một mối duyên hờ hững như tên con dốc mà hai người gặp lần đầu tiên. Nhưng với Otama thì lại không như vậy, mỗi lần đứng trong ô cửa nhìn ra ngoài, thấy bóng dáng chàng sinh viên nọ là lòng nàng lại rạo rực khôn nguôi, nàng muốn một lần được nói chuyện, được thỏa lòng với chàng trai trẻ nhưng cuộc đời chẳng bao giờ toại nguyện cho ai bao giờ.


Otama là cô gái xinh xắn, mới 20 tuổi nhưng lại có những quãng đời bất hạnh. Nàng bị một tên lừa đảo đòi lấy làm vợ, sau đó vì nợ nần mà phải gán mình cho con buôn Suezo để cha có tiền trả nợ. Làm vợ hờ của một con buôn, nàng chỉ biết ngồi nhà ngóng đến giờ Suezo tới thăm cũng chẳng dám đi gặp cha vì sợ người trong xóm đàm tiếu. Và niềm vui duy nhất của nàng là mỗi khi Otaka đi qua, nhìn vào cửa sổ nhà nàng.


Câu chuyện kể về những nhân vật rất đời thường, Suezo là một tên có tiền của, lạichán bà vợ mập ở nhà cùng những đứa con nheo nhéo suốt ngày, hắn muốn có một cô vợ trẻ đẹp nhưng cũng chẳng muốn bỏ vợ. Vợ hắn khi biết chuyện thì tru tréo, làm mình làm mẩy khiến hắn chối đây đẩy. Nhưng rồi cái tham vọng của hắn vẫn chiến thắng, vẫn lén lút đi lại với Otama.


Riêng về phần Otama, trong buổi lễ cưới, nàng đã tự an ủi mình có được người chồng như Suezo đã là hạnh phúc rồi, chẳng mong gì hơn. Nhưng cõi lòng người con gái đương thì không thể cứ ngồi nhà vò võ đợi chờ, nhất là khi nghe phong thanh rằng Suezo là tay buôn, là phương gian lận thì Otama vô cũng thất vọng. Một dịp may hiếm có, khi Okada đi ngang qua nhà nàng thì có một con rắn đang chui vào chiếc lồng chim trước cửa sổ nhà Otama, nàng có cơ hội nói chuyện với chàng sinh viên điển trai. Và rồi nàng mơ mộng, nàng tìm cách để cho cô bé hầu gái về quê, nàng biết Suezo sẽ đi vắng trong nhiều ngày, nàng dự tính chiều nay, khi Okada đi qua, nhìn vào cửa sổ như mọi khi, nàng sẽ lấy hết can đảm để chạy ra gặp Okada, sẽ mời chàng vào nhà, sẽ nói cho thỏa lòng nhung nhớ bao lâu. Nhưng như đã nói, cuộc đời nhiều khi chẳng như mình dự tính.


Đúng buổi chiều hôm ấy, Okada có đi qua, có nhìn vào ô của sổ, có gật đầu chào Otama nhưng chàng không đi một mình, và thế là mọi sự chuẩn bị của Otama chẳng đạt được kết quả nào, nàng chỉ biết đứng đó, nhìn Okada đi khuất dạng, và đó là lần cuối cùng họ được gặp nhau. Cộc đời vẫn cứ lặng lẽ trôi, cuộc sống của mỗi người vẫn phải tiếp diễn, vẫn còn đó những ước mong, những luyến lưu chẳng bao giờ trở thành sự thật.


Và như thế, chúng ta, mỗi con người trong cuộc đời này, vẫn sống với những mong mỏi của mình, đến suốt cuộc đời.

Lâm Hạ

Dấu ấn hậu hiện đại qua truyện ngắn "Tên cớm và bản thánh ca" của O'Henry

Leave a Comment
1. Vài nét về chủ nghĩa hậu hiện đại
 Chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernism) là một thuật ngữ được dùng trong nhiều lĩnh vực tư tưởng, từ triết học, mĩ học, các ngành phê bình, nghiên cứu nghệ thuật, trong đó có văn học.
Thuật ngữ chủ nghĩa hậu hiện đại lần đầu tiên được dùng trong cuốn sách xuất bản năm 1917 của nhà triết học người Đức Rudolf Pannwitz. Nhiều nhà nghiên cứu sau Rudolf Pannwitz đã phát triển ý nghĩa của thuật ngữ này, trong đó một số tên tuổi như Ihab Hassan, Jane Jacobs, Michel Foucault, Jean-Francois Lyotard, Richard Rorty... Có thể xem Jean-Francois Lyotard là người tiên phong trong việc vận dụng thuật ngữ này vào nghiên cứu văn học với cuốn “La condition postmoderm”(1979). Cũng còn có rất nhiều ý kiến cho rằng cái gọi là hậu hiện đại chỉ là một khái niệm của những kẻ hư vô chủ nghĩa tưởng tượng ra mà thôi. Tuy nhiên xu thế chung vẫn là người ta đang dần dần chấp nhận lý thuyết này. Vậy thật ra văn chương hậu hiện đại là gì? Nó có những đặc trưng nào để có thể khu biệt với văn chương hiện đại khi mà cái thời gọi là hậu hiện đại đang tồn tại ngay trong thì hiện tại chưa hoàn thành của chúng ta (thuật ngữ của Bakhtin)? Theo các công trình nghiên cứu, khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại dần dần được hình thành, và được định nghĩa như một hệ hình lí thuyết mới phù hợp với sự phát triển của khoa học kĩ thuật gắn liền với cuộc sống, tâm tư, tình cảm của con người. Một cách nhấn mạnh trong việc hiểu khái niệm Hậu hiện đại như Lyotard cũng phần nào giúp người nghiên cứu nhận ra bản thể chính của xã hội, hoặc trong các tác phẩm văn học: “Hậu hiện đại là sự hoài nghi đối với các siêu tự sự. Nó hiển nhiên là kết quả của sự tiến bộ của các khoa học; nhưng sự tiến bộ nàu đến lượt nó lại tiền giả định sự hoài nghi đó. Tương ứng với sự già cỗi của cơ chế siêu tự sự trong việc hợp thức hoá là sự khủng hoảng của nền triết học siêu hình học, cũng như sự khủng hoảng của thiết chế đại học phụ thuộc vào nó”. Có vẻ như hơi trừu tượng với khái niệm này, chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản hơn nữa trong khái niệm của Nguyễn Hưng Quốc: “Chủ nghĩa hậu hiện đại có nhiều cấp độ: rộng, nó chỉ những điều kiện văn hoá, triết lí sống và phong cách sống của cả một thời đại; hẹp, nó chỉ một trào lưu sáng tác với quan điểm mĩ học và kĩ thuật cũng như thủ pháp riêng khác với những tác phẩm ra đời trong quỹ đạo hiện đại chủ nghĩa trước đó”….
Cuối cùng chúng ta có thể thấy rõ nhất sự khác biệt của lí thuyết chủ nghĩa hậu hiện đại với các thời kì trước nó chính là việc đổi mới lối tư duy trong sáng tạo, hay nói cách khác đó là chủ nghĩa của “tự do”, được phép thể hiện tất cả những vấn đề trong cuộc sống xã hội cũng như trong đời sống tâm hồn của con người. Chủ nghĩa hậu hiện đại cuối cùng vẫn là một sự quay trở về đầy ẩn dụ với cái nguyên bản của khối hỗn độn thời kì nguyên thuỷ. Nhưng, nó vẫn là những cái mới, những cách thể hiện hết sức tự do, thoát khỏi kiểu đại tự sự truyền thống và cổ suý cho những tiểu tự sự, như một kiểu chia nhỏ, tách nhỏ vấn đề đời sống trong sáng tạo nghệ thuật vậy.

2. O’Henri và phong cách
O’Henry tên thật là William Sydney Porter sinh ngày 11 tháng 9 năm 1862 trong một gia đình thầy thuốc ở Grinsboro bang Carolina phía bắc nước Mỹ. Ông viết chừng 300 truyện ngắn, in thành tập Cabbages and Kings, 1904 (Bắp cải và vua chúa), The Four Million, 1906 (Bốn triệu), Mearts of the West, 1907 (Những tấm lòng của miền Tây), The Gentle Garafter, 1908 (Tay bịp bợm đáng mến), Rolling Stones, 1913 (Đá lăn), và một truyện dài. Ông dùng cấu tứ mới mẻ, ngôn ngữ khôi hài, thủ pháp đột biến biểu hiện xã hội Mỹ đầu thế kỷ 20, mở ra con đường truyện ngắn kiểu Mỹ.
O’Henry thường nói: “Tôi ước ao được sống suốt đời trên mỗi đường phố New York. Mỗi nhà trên đường phố có một tấn kịch riêng, và ta không bao giờ hết ngạc nhiên trước những kỳ quan của thị thành mà mỗi góc đừơng lại như sắp có chuyện gì xảy ra. Có người bị cướp giật trong công viên và chỗ kia nghe nói có người trước đây sáu tháng nghèo rớt mồng tơi mà nay đã cưới được con gái nhà triệu phú. Có những bác thợ từ vùng mỏ Sierra lần mò đến đây lập nghiệp, và đôi khi người ta lại còn gặp một người đi suốt ngàn dặm để đến gặp một người bạn thân. Chàng nhạc sĩ chơi dương cầm trong quán rẻ tiền nọ rất có thể đã từng bắn được sư tử ở Phi Châu, anh bồi phòng kia trước đây có thể đã từng ở trong quân đội Anh đi đánh dân Zulus…”. Có thể nói đó là một sự bày tỏ mà chúng ta đã bắt gặp qua từng tác phẩm, từng câu chuyện ngắn của nhà văn như một minh chứng cho phong cách của O’Henri. Phong cách của O’Henri vừa là cổ điển, vừa là lãng mạn, nhưng cũng hết sức đậm chất hiện thực. Chính sự kết hợp đa dạng này, làm cho tác phẩm của ông có sức hút rất lớn đối với đọc giả trên thế giới…
Thành công của ông dựa vào bố cục thông minh và đối thoại lời thông tục, cách sử dụng tiếng lóng, khẩu ngữ cùng với những phương pháp mới miêu tả lịch sử lãng mạn, hài kịch và bi kịch của đời sống bình thường. Alphonse Smith đã nói: “O’Henry so sánh với W.Irving, so sánh với E.Poe, so sánh với F.Harte trên văn đàn Mỹ chiếm địa vị riêng biệt. Irving là dùng thủ pháp lãng mạn, thêm vào sinh mệnh mới cho truyền thuyết kể bằng miệng, E.Poe dùng kỳ tài đáng kinh ngạc của ông, xác định địa vị nhà viết truyện ngắn, Harte là dùng phương ngữ, khiến tác phẩm của ông lộ rõ màu sắc địa phương nồng đậm, O’Henry là vượt lên khỏi thời gian và địa phương, trong truyện ngắn của ông biểu hiện sâu sắc và chân thực tính người phổ biến nhất bất biến bất diệt.”

3. Dấu ấn hiện đại trong truyện ngắn: “Tên cớm và bản thánh ca”
Vẫn là chiếc lá, hình tượng đã bắt gặp trong tác phẩm quen thuộc nào đó. Và, tiếp tục thêm một chiếc lá nữa - chiếc lá vàng rơi báo hiệu mùa đông. Một mùa không dành cho người dân nghèo. Soapy - một thanh niên nghèo quyết định trốn mùa đông khắc nghiệt bằng cách làm một việc gì đó phạm luật để được vào tù. Với anh, nhà tù cũng là một căn nhà, trong đó không lo mưa, lo tuyết. Hàng ngày vẫn được hai bữa ăn. Dù đã làm mọi cách nào ăn trộm, nào gây náo loạn đường phố … nhưng cảnh sát và người ta vẫn coi đó là chuyện bình thường. Mỉa mai thay, khi giữa màn đêm được nghe bản Thánh ca và quyết định làm một người lương thiện thì Soapy lại bị bắt - được đi tù theo như mong ước ban đầu.
Dấu ấn hậu hiện đại dễ dàng nhận ra rõ nét nhất qua dăm trang giấy ở truyện ngắn này chính là sự phi lí trong các tình huống truyện với nhân vật chính là anh chàng Soapy ấy. Để được vào tù, để được vào Khám Đảo tránh rét, và được ăn no, Soapy đã vạch ra một kế hoạch đó là làm việc bất chính. Lần thứ nhất, Soapy nghĩ đến việc sẽ bước chân vào một nhà hàng thật sang trọng, ăn một bữa thật no nê, và khi ăn xong sẽ đứng dậy tuyên bố không có tiền trả, với hi vọng sẽ được người ta trao mình cho cảnh sát. Kế hoạch của Soapy thất bại. Anh bị tống khỏi nhà hàng đó khi vừa bước chân vào bên trong cửa tiệm. Không nản chí, Soapy tiếp tục nghĩ ra kế hoạch khác. Chi tiết này khiến ta bật cười bởi sự phi lí của nó. Soapy cứ ngỡ rằng, nhặt một hòn đá củ đậu ném choang vào cửa kính và đứng yên đợi cảnh sát đến, rồi tự nhận mình là kẻ đã gây ra sự việc ấy, với một mong ước là được đi tù. Nhưng, viên cảnh sát nọ làm sao hiểu được ngầm ý tội nghiệp của anh chàng Soapy này. Làm sao hiểu nổi sự phi lí của xã hội, mà tưởng chừng như nó đã trở thành hiển nhiên? Có đời thuở nào, kẻ phạm tội lại tự nhận mình phạm tội. Có cái lí nào cho kẻ một tay trộm cướp sau khi làm việc bất chính xong, đứng lại cho cảnh sát bắt, ta thấy cái phi lí, ta thấy buồn cười, nhưng ta cũng thấy đáng thương thay cho nhân vật của O’Henri khi: “Viên cảnh sát từ chối không tin lời Soapy dù chỉ xem đó như là một manh mối. Những kẻ đập vỡ tủ kính không bao giờ dừng lại để hội đàm với tay chân của pháp luật. Chúng ù té bỏ chạy ngay…”. Như thế, cũng có nghĩa là kế hoạch lần hai của Soapy tiếp tục thất bại.
Với cách dựng truyện và giọng điệu dí dỏm O’Henri đã đem đến cho người đọc sự cảm nhận từng tình tiết phi lí, một yếu tố không thể thiếu của hậu hiện đại. Phi lí đấy nhưng cũng hoá thành có lí. Giống như hai mặt đối lập nhau trong đời sống nhiều mâu thuẫn của tâm trí con người, giữa lí tính và cảm tính. Trong các tác phẩm của mình, có thể thấy rất rõ “O’Henri để luật pháp chiến thắng, cái ác phục tùng cái thiện” và chính câu chuyện, trong cái phi lí của nhân vật Soapy điều ấy cũng đã thể hiện. Để cuối cùng, mong ước nhỏ nhoi nhất của Soapy là được đi tù chỉ là một tham vọng hết sức buồn cười và phi lí. Đến những tình tiết tiếp theo của câu chuyện, những kế hoạch bất chính tiếp theo của Soapy và những thất bại trong việc cố gắng được đi ở tù, được vào Khám Đảo ba tháng cho qua mùa rét, O’Henri dường như đang cố tình dựng nên liên tiếp sự phi lí ấy để chứng minh cho một cái gì đó. Phải chăng, nhà văn đang cố gắng làm cái việc “khai thác mặt tốt trong tâm hồn những người bị đẩy ra bên lề cuộc đời,…muốn khẳng định hạt nhân tính thiện trong bản chất của con người…” khi triển khai ở góc độ của nghệ thuật dựng truyện, dựa trên những tình tiết phi lí trong các kế hoạch của Soapy. Với những lần hành động tiếp theo, mặc dù Soapy đã cố gắng hết sức để hi vọng việc làm bất chính của mình được mấy viên cảnh sát để mắt tới. Chẳng hạn như: Chuyện gây náo loạn ở đường phố, chuyện trêu gẹo gái trước mặt viên cảnh sát, và chuyện ăn trộm cái ô rồi tự nhận một cách trắng trợn…Nhưng, Soapy càng cố gắng thể hiện mình là kẻ bất chính, thì yếu tố phi lí càng tăng tiến một cách hài hước. Những hành động ấy của Soapy, dường như chỉ khiến cho người đọc bật cười. Cả sáu lần như thế, Soapy đều thất bại, mà không hề nhận ra tại sao mình thất bại? Nếu một người bình thường, khôn ngoan hơn có lẽ, để đạt được mục đích đi tù chắc cũng không khó lắm. Cho rằng Soapy là một kẻ ngốc, chắc người đọc sẽ cảm thấy đỡ phần thắc mắc hơn vì sao Soapy thất bại chăng?
Không đơn thuần chỉ xây dựng nên một nhân vật hài hước, với một mong ước hài hước, và phi lí trái ngược trong truyện ngắn này. O’Henri dường như đang cố gắng khai thác cái thiên lương ẩn sâu nơi tâm hồn con người, hoặc “muốn khẳng định những kẻ bị vứt ra ngoài lề pháp luật ấy chưa hẳn tất cả đều xấu”. Trong sáng tạo văn học, O’Henri đã làm được cái việc đó là “dùng ngòi bút của mình để phủ nhận quan điểm thường tình của người đời là luôn xem tất cả những người vi phạm luật pháp là những người xấu xa, đáng ghét”. Chính Soapy cũng đã cho ta thấy cái vẻ đẹp tâm hồn khi thể hiện lòng tự trọng của chính mình về chuyện ăn uống: “Anh vốn coi khinh những thức ăn người ta lấy danh nghĩa làm phúc ban cho dân nghèo của thành phố. Theo quan niệm của Soapy, pháp luật còn dễ chịu hơn là lòng từ thiện.” Hoặc, những suy nghĩ đầy tính triết lí mà O’Henri để cho nhân vật tự thể hiện: “Mọi thứ nhận được của các bàn tay từ thiện nếu không phải trả bằng tiền thì lại trả bằng sự nhục nhã của tâm hồn…”
Yếu tố phi lí được O’Henri dẫn dắt đến cùng của câu chuyện, đến kết thúc vẫn còn thấy phi lí. Và, bản thánh ca đóng vai trò quan trọng cho việc Soapy nhận ra sự thay đổi của tâm hồn mình. Giống như anh Chí Phèo, một buổi sáng tỉnh dậy sau cơn say, nghe những âm thanh của cuộc sống, mà ao ước muốn được làm hoà với mọi người, muốn được làm người lương thiện biết chừng nào. Ở đây, O’Henri cũng đã xây dựng được sự thức tỉnh ấy, để cho nhân vật của mình tự khai thác cái thiên lương trong tâm hồn. Nhưng, oái ăm thay, khi con người ta bắt đầu nhận ra được đâu là con đường chính đạo để đi, thì xã hội lại vô tình đẩy họ quay trở lại với những lạc lối đến vô lí. Soapy đã nghĩ đến việc sẽ đi xin việc làm, đã nghĩ đến việc: “Anh sẽ là một con người ở đời như ai. Anh sẽ…” Và, câu chuyện được nhà văn dẫn dắt đến một kết thúc hết sức bất ngờ, khi Soapy chẳng làm việc bất chính, nhưng lại được đi ở tù đúng như nguyện ước ban đầu, mà anh năm lần bảy lượt vạch ra kế hoạch. Ba tháng tù ở Khám Đảo. Đó là câu kết thúc. Đáng thương, đáng tội cho Soapy.  Dường như đây cũng là một kết thúc để ngỏ đầy bất ngờ, mở ra cho người đọc nhiều chiều tiếp nhận và suy nghĩ trong truyện ngắn này.

4. Kết luận
Dẫu chỉ là một vài nét nho nhỏ, hay với cái nhìn tinh tế về những góc độ trong xã hội từ cái có lí đến cái phi lí, từ những đối nghịch mâu thuẫn hết sức căn bản đó, O’Henri đã thành công với hàng loạt truyện ngắn mang dấu ấn hậu hiện đại của mình.
“Tên cớm và bản thánh ca” tràn đầy xúc cảm, hài hước trong những hành động của nhân vật Soapy. Nhưng, đến phút cuối, ta bỗng nhận ra: Nụ cười của ta chỉ là một cơ số nhỏ trong ý thức chủ đạo về mặt nghệ thuật của nhà văn, khi chính “bản thánh ca” mới là hình tượng mở nút, làm cho câu chuyện trở nên thật sự nhân văn hơn nữa.
Xuyên suốt cả tác phẩm nếu chỉ chú ý đến những yếu tố phi lí thì thật là một sự thiếu sót. Bên cạnh đó còn là những bút pháp nghệ thuật với giọng điệu giễu nhại, mỉa mai, nhưng cũng ẩn chứa cả một tấm lòng của người cầm bút. Những trang văn O’Henri viết ra, không chỉ để cảnh tỉnh con người, cứu giúp để con người sống đẹp hơn, tốt hơn, mà còn là để thể hiện chính quan điểm của O’Henri: “Thiên chức nghệ thuật là thanh lọc tâm hồn hướng thiện của con người”…

Trần Hương Giang


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.     Lê Huy Bắc. Hợp tuyển văn học Châu Mỹ (tập 1), NXB Đại học QG Hà Nội, 2001
2.     Lê Huy Bắc. Truyện ngắn lí luận tác gia và tác phẩm (tập 2), NXB GD, 2005

3.     Một số tư liệu khác về lí thuyết hậu hiện đại

Đám đông cô đơn trong" ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối của Patrick Modiano"

Leave a Comment
Đi sâu vào vấn đề về con người, mà cụ thể là cái cô đơn bản thể, Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối của Patrick Modiano đã “kéo tấm màn u sầu”  bằng những “vùng trung tính”, “những hố đen”, những con người đều “không nói nhiều lắm”,… đến trước mắt độc giả. Cốt truyện tưởng chừng như đơn giản với những nhân vật đơn điệu, nếu không muốn nói là tất cả họ đều mang dáng vấp buồn tẻ. Nhưng xuyên suốt cuộc hành trình, mỗi một nhân vật lại mang cho độc giả một cái nhìn đặc dị, mà chỉ ở những ai đã từng trải qua nỗi cô đơn, nỗi trống trải và hoang mang đó mới có thể thấy và thấu.

Con người cô đơn ấy được biểu hiện ở hai phương diện cơ bản. Thứ nhất, con người cô đơn với xã hội. Le Condé – quán cà phê có khách khứa kỳ cục nhất, ở đó, mỗi người khách đều mang trong mình những bí mật về quá khứ mà không ai khác không biết, cũng như không hề muốn muốn biết. Ở đó, họ đến với nhau, ngồi cùng bàn với nhau, chơi trò với nhau, chỉ cần biết tên nhau hoặc thảng nhiên không hề biết tên nhau, chỉ có những cái tên kiểu Louki mà học tự đặt, anh chàng mặc áo khoác da hoẵng,..  và không ai muốn người khác biết mình đã là ai trong quá khứ: “tôi cảm thấy khuôn mặt tôi không gợi lên điều gì. Càng tốt. Nhẹ cả người”. Chỉ có riêng họ với hành trình quy hồi vĩnh cữu ngay trong chính bản thân họ, mọi lúc, mọi nơi. Những Louki, Maurice Raphel, Zacharias, Annet, Don Carlos, Fred, Roland, Guy De Vere… chính họ là đám đông cô đơn trong cái hiện thực đời sống ở Paris đương thời. Ở cái xã hội ấy, con người không kịp sáp nhập vào với nó, có khi không kịp sáp nhập với chính bản thân mình, hoặc có nhưng vẫn ngăn cách với thế giới, tuy nhiên họ vẫn luôn hiện hữu ở một thế giới khác, thế giới của những vùng trung tính, những hố đen, những kí ức buồn. Đám đông ấy cô đơn đến mức nghe rõ tiếng vang vọng những bước chân của chính mình, đôi lúc tuyệt vọng và vô phương đến mức phải tìm đến “tuyết” để xua đi những cảm giác hoang mang, trỗng rỗng trong lòng mình. Thứ hai, đó là con người cô đơn với bản thể chính họ.  Những đêm Louki ra đi với tâm trạng bất ổn, hoang mang, lạc lõng, và khi trở về cũng với một tâm trạng như thế. Chỉ trong cuộc hành trình với những vùng trung tính ấy cô mới thấy cuộc sống là thú vị: “những buổi tối khác, nỗi hoang mang tan biến và tôi sốt ruột chờ cho đến khi mẹ đi khỏi để ra ngoài. Tôi xuống cầu thang, trống ngực đập thình thịch, như thể đang đi tới một cuộc hẹn”. 

Ngoài ra, khi để cho từng nhân vật thực hiện tham vọng chinh phục hành trình quy hồi vĩnh cửu ấy, nhà văn đã để quá khứ lên ngôi, biến những thứ quá vãng thành kho báu của mỗi con người. Và mỗi nhân vật đều bị ám ảnh bởi  những vùng trung tính, những vật chất đen.  Sau cùng tác giả làm cho người đọc ngầm hiểu rằng chính những vùng trung tính, những hố đen ấy dường như là “khởi thủy của cô độc”. Cô đơn và quá khứ luôn hiện diện trong tâm tưởng của mỗi nhân vật và chi phối hành động của họ. Đó là khi Louki ngược về kí ức để tìm sự “đôi thoại” với mẹ, với những quảng trường, con phố, nơi mà cô đã từng là “trẻ vị thành niên lang thang”. Là khi anh chàng mặc chiếc áo khoác da hoẵng Roland đi tìm lại những kí ức  của mình, anh đã hoàn toàn thất bại, thế rồi cái cô đơn bản thể trong anh lại trỗi dậy: “ Kể từ giây phút đó, trong đời tôi đã có một sự vắng mặt, một khoảng trắng, nó không chỉ gây cho tôi một cảm giác trống rỗng, mà tôi không thể chịu đựng được mỗi khi nghĩ đến”. Thế nhưng anh vẫn đi tìm kí ức, dù cho nó có đau buồn đến mấy đi chăng nữa… Kể cả anh chàng học Trường Mỏ, lão già tự xưng là Nhà xuất bản nghệ thuật, ông bác sĩ, và có cả bà chủ quán cà phê Le Condé…

Kết thúc câu chuyện là cái chết không mấy bất ngờ dành cho kẻ cô đơn thứ thiệt - Louki, giống như cái quy luật nghiệt ngã vốn có của cuộc đời rằng những kẻ cô độc bất hạnh luôn tìm về nhà, mà nhà chính là nơi yên nghỉ vĩnh hằng. Ở đó họ sẽ không còn hoang mang, không còn lạc lõng hay cảm thấy trống rỗng, không còn những vùng không gian trung tính, u tối và ở đó họ tìm được cho mình một niềm hạnh phúc thật sự: “Hạnh phúc sao khi được bồng bềnh trong không trung và rốt cuộc cũng biết được cảm giác phi trọng lực mà tôi vẫn tìm kiếm bấy lâu nay”.

Để tạo nên sự hài hòa giữa quá khứ và hiện tại, kết cấu không – thời gian được tác giả khéo léo đan cài với từng câu chuyện của mỗi nhân vật.  Đặc biêt, lớp không gian cố định với những quảng trường, và đaị lộ được nhà văn tái hiện một cách rõ nét, đó là không gian ám ảnh nhân vật, góp phần đắc lực tạo nên bối cảnh giữa cái cô đơn của nhân vật và cái mênh mông, dài rộng của nó. Bên cạnh đó, với sự linh hoạt trong dịch chuyển điểm nhìn của người kể chuyện, người kể chuyện đầu tiên ở ngôi thứ nhất xưng Tôi  - anh chàng Trường Mỏ kể về những con người kỳ cục trong quán cà phê kỳ cục Le Condé, rồi sang những chương khác, anh ta chỉ chỉ là một vai phụ, thế chỗ cho những con người kỳ cục mà anh ta đã kể ấy kể về mình, từ Rolad cho đến Louki hay Guy de Vere… Điều này khiến cho người đọc không hề có cảm giác được kể, mà giống như đang cùng phiêu với cuộc hành trình quy hồi vình cữu ấy, cùng đi trên đại lộ Rachel, Duoai, Fontaine… quảng trường Blanche, Clinchy,…  Mọi thứ  đều  có vẻ như cực kỳ ngổn ngang, rối rắm tưởng chừng như không gỡ ra được, những thực chất đó là sự sắp đặt  tinh tế của  nhà văn.

Có thể thấy, với tính đơn nhất của thế giới mà Pactrick Modiano đã biểu đạt, đồng thời cùng tính đặc dị được biểu hiện thông qua tính cách nhân vật, sự phân tán các quan điểm của họ trước cuộc đời, cuốn tiểu thuyết này đã thể hiện được phần chính yếu của con người, cái tôi sâu thẳm bên trong, cái cô đơn của con người với cuộc sống đời thực. Nhà văn đã rất thành công  khi vận dụng triết học của Guy Debord  biến nó từ một thứ triết lý khô cằn thành một bản nhạc trữ tình với những âm điệu du dương, sâu lắng và có sức khơi gợi vô cùng đối với độc giả.

(Theo Trần Thị Ty - Văn Chương Việt)

“Thoạt kỳ thủy” dưới góc nhìn tâm thức hiện sinh

Leave a Comment
Đi tìm lời giải thích cho một văn bản, cũng là lúc chúng ta có dịp được tiếp xúc với một thế giới mới. Thế giới ấy, lại là sự hiện thân cho chính cái nhìn của tác giả về những gì mà anh ta đã trải nghiệm và không ngừng sáng tạo nên nó. Thông qua văn bản, chúng ta tìm cách khai thông cho mình một con đường để đến với thế giới đó. Nhưng liệu rằng, trong sự khai thông vừa nhắc đến chỉ có thể có duy nhất mỗi một con đường cho bất kỳ ai tự nguyện là một khách lữ hành dấn thân trên con đường ấy hay không? Quả nhiên, sẽ rất khó để có thể tồn tại một con đường đầy mộng tưởng về tính tuyệt đối như thế. Mỗi con đường là một giải pháp mà theo từng cá nhân sẽ là khả thi để họ chọn lấy khi tiến hành phân tích tác phẩm. Con đường đến với khát khao khám phá trong kỳ vọng thông hiểu tác phẩm một cách đầy đủ nhất. Và tác phẩm để khám phá sẽ không thể được trưng ra một cách ngẫu nhiên như bản thân nó vốn chẳng có điều gì đó đáng chú ý cả. Một đòi hỏi thiết yếu là nó phải chứa đựng những thách thức, tỏa ra từ chính nội lực của bản thân nó - mang đậm tính khiêu khích. Thoạt kỳ thủy - một tác phẩm độc đáo của Nguyễn Bình Phương, theo chúng tôi, là một tác phẩm đủ nội lực để hấp dẫn như thế. Và giải pháp mà chúng tôi chọn lấy để tiến hành khai thông tác phẩm này không khác đi trong một chiều hướng phân tích dưới góc nhìn tâm thức hiện sinh (hiện tượng luận hiện sinh).

Chúng tôi đã cố gắng gạn lọc toàn bộ tác phẩm để qua đó có thể nêu lên những câu hỏi sơ yếu về nội dung của nó. Và các câu hỏi được đặt ra đóng vai trò như mỗi một luận điểm quan trọng, đồng thời, như là mỗi bước đi vững chắc để có thể tiến đến nhằm chỉ ra ý nghĩa của tác phẩm muốn nói nên điều gì. Thông qua thao tác lần mở và phơi bày, chúng ta sẽ được dẫn dắt từ từ qua những nẻo đường thâm u của Thoạt kỳ thủy mà đích đến của nó lại như một sự neo buộc về với những gì quang đãng mà nhân bản nhất.

1. Tính là ai? - Sự trôi dạt bản ngã như là tiếng gọi thê lương của tồn tại

Tính là nhân vật chính trong truyện. Vừa mới sinh ra Tính đã thấy trăng. Nỗi sợ hãi khi nhìn thấy trăng đã theo Tính suốt cả cuộc đời. Ngay khi mới lọt lòng, nhìn thấy trăng Tính đã sợ, co lại, thét lên và choáng ngợp trước thứ ánh sáng lạnh lẽo, rên xiết ấy. Con người này đã bị ám ảnh trước thứ ánh sáng vàng trắng kia. Một nỗi ám ảnh tai ương ngay từ thuở bình minh của đời người. Nỗi ám ảnh ấy là dấu hiệu cho những úy kỵ về sau, khi lớn lên, Tính đã bộc lộ ra. Bản thân Tính bị coi là điên, điều đó là sự thật. Một sự thật không chờ đến khi Tính giết đứa bé điên ở làng Thổ, dúi diêm đốt cháy nhà ông Điện hay đâm chết ông Khoa, mà trước đó, với những biểu hiện không bình thường người đọc đã có thể biết được Tính là một người điên. Nhưng nếu chúng ta nhìn vào Tính với một sự điên loạn như thế, thiển nghĩ, cũng khó có thể hiểu được điều gì còn khuất lấp đằng sau những triệu chứng không bình thường ấy của Tính. Tiếng gọi thê lương của tồn tại luôn được cất lên một cách dai dẳng trong suốt cả cuộc đời của Tính. Một tiếng kêu xé lòng đối với một đời người. Tiếng kêu đấy lâng lâng, miên man có khi rống lên như một sự gào khóc của phần người bên trong bản thân Tính. Và khi đi tìm những gì còn khuất lấp đằng sau cuộc đời hiện thực đấy, ta mới thấy được sự hiện sinh của Tính chua chát đến như thế nào.

a. Một sự trình hiện thất bại của bản ngã (self)

Bản ngã của một người, khi người ấy trình hiện trước thế giới, với những sức mạnh nội lực như là điều kiện để cho bản ngã chính thực của người đó được biểu lộ. Ở Tính có sức mạnh ấy không? Rõ ràng là không, với một kẻ sinh ra thấy trăng đã sợ hãi, thất thần và bị nhấn chìm trong thứ ánh sáng hư huyễn kia thì không thể nào hàm chứa trong mình một sức mạnh dù là nhỏ nhoi trong ý nghĩa nội lực được. Và đó như là một định mệnh của Tính, sự sợ hãi gieo rắc lên trên toàn bộ tinh thần Tính, khả năng lôi cuốn cho sự hiện trình của bản ngã ở Tính đã thất bại một cách thê thảm. Cái bản ngã ấy, nếu có, chỉ là một cái gì đó mờ nhạt, lay lắt. Sự thất bại hiện trình bản ngã đích thực của một con người trong mong muốn trình hiện ra ở thế giới đã kéo con người vào trong hố đen của những điều phi lý tưởng chừng như không bao giờ có thể thoát ra khỏi đó được. Và sự thật cay đắng là bản thân Tính đã bị quẳng ném một cách không thương tiếc vào trong hố đen phi lý đó. Bản ngã của Tính không còn là một sự hiện diện đầy đặn cho con người như nó vốn quy định nữa. Khi tuổi thơ chỉ biết bắt công cống hay kiến để giết. Một sự thất bại trong nỗ lực trình hiện cái bản ngã đó đã không thành cũng vì do ở nội lực đó đã không tiềm tàng một chút sức mạnh nào cả. Giết kiến hay giết công cống chính là cách mà Tính muốn có được sức mạnh ấy, nhưng đó không phải là một thứ nội lực hữu ích để tạo điều kiện trình hiện cho chính bản ngã của Tính. Khả năng trình hiện đích thực của bản ngã đó đã bị vùi sâu vào bở thửa của một sự lưu đày nhân tính trong con người Tính. Một sự thất bại ê chề của cả một cuộc đời u ám.

b. Một sự tham dự mờ nhạt của bản chất (essence)

Chính sự lưu đày nhân tính trong con người Tính đã tạo nên một hệ lụy nghiêm trọng trong bản chất của Tính. Bản chất ấy khó có thể được xem như đó là bản chất của một con người. Một con người bình thường bao giờ cũng là sự tham dự đậm nét của nhân tính đóng vai trò như là bản chất cố hữu của con người. Và bản chất đó của Tính đã được ông Phùng thốt ra qua câu nói về Tính nghe như nửa đùa nửa thật: “Thằng Tính là thanh gươm không có vỏ”[1]. Rồi đến lượt ông Điện nói về Tính khi ông không cho Tính đi mổ heo cùng nữa: “Thằng này lớn lên nguy hiểm lắm.” Chính trong một sự tiêu biến bản chất người bên trong Tính mà cả ông Phùng và ông Điện đều đã có linh tính báo trước được về con người của Tính. Một sự chìm nghỉm trong nhận thức có lẽ không bao giờ tồn tại khái niệm phản tỉnh. Bản chất con người Tính vì thế mà bị thao túng đến cùng cực. Sự tham dự của bản chất con người ngập tràn nhân tính là một điều gì đó vô cùng xa xỉ đối với Tính. Thứ bản chất ấy dường như là một sự méo mó trong cùng tính chất gần gũi với chứng tâm thần phân liệt (schizophrenia). Bản chất con người Tính đã bị xóa sổ đi trong mọi ý nghĩ của Tính. Sự di căn từ những hình ảnh lúc đi chọc tiết lợn cùng với ông Điện, đã ghi dấu vào thâm sâu nơi con người Tính, để rồi đến nỗi phần đời còn lại của Tính chỉ gói gọn trong ý nghĩ “chọc tiết”. Một sự ấn kí tàn nhẫn lên trên tâm trí một đứa trẻ non dại, những hình ảnh man rợ cứ theo nó đi hết cả cuộc đời héo úa, lụi tàn.

c. Một sự nhập cuộc vô nghĩa của tồn tại (being)

Sự tồn tại của Tính là sự tồn tại của một kẻ lưu vong biệt xứ. Tồn tại không được nhận dạng trong một ý nghĩa của hai chữ con người. Đó là một sự tồn tại khiếm khuyết mà bản thân Tính không bao giờ có ý định chối bỏ nó. Tính là một kẻ lạc loài, một kẻ sống như người mà chẳng phải người. Khi mà bản tính điên loạn âm ỉ ngày một dữ dội hơn thì biểu hiện của Tính càng lộ rõ. Cái ánh mắt dán chặt vào yết hầu của những ai mà Tính để ý dường như gần giống với một sự thèm khát được thực hiện thông qua hành động chọc tiết lợn, theo cách ông Điện đã làm trước đây. Tồn tại của Tính bị phủ lấy một màu đen xám xịt, tù mù của những bấn loạn triền miên mà không hề vơi bớt một biểu hiện nào đó có thể dung hòa lại mọi thứ. Nó là cả một sự xáo trộn không ngừng nghỉ của những động cơ gàn dở đến hắc ám. Phản ứng sau khi giết thằng bé điên, đó là những phản ứng của kẻ đang xảy ra những xung đột nảy lửa tận bên trong tâm lý hỗn loạn của chính hắn. Và rồi lần lượt là những con lợn bị chọc tiết, bản tính điên loạn ấy đã được đẩy đến độ cao trào. Tồn tại của Tính ngập tràn trong máu và chọc tiết. Thứ tồn tại cực kỳ vô nghĩa đối với một con người. Bản tính ấy đã là một sự triệt hạ toàn bộ mọi thứ có ý nghĩa thuộc về phần người của Tính. Một sự nhập cuộc vô nghĩa của tồn tại đối với Tính mà giờ này đã được chủ động một cách triệt để cho những sự định hướng về một công thức rất đơn giản: máu và chọc tiết.

d. Một sự chìm đắm dị dạng của Dasein (hiện thể)

Nhìn vào Tính, sự lẫn lộn giữa vật và người đã tạo nên một cái nhìn đau đớn cho thân phận ủ dột ấy. Đó là sự thống ngự của phần con choán chỗ hết tất cả những ảnh hưởng của phần người. Đó là một sự rỉ tai của thú tính vào cơ chế hành động của Tính. Do đó, sự lẫn lộn về bản chất của Tính là một điều khó tránh khỏi. Dasein không khoác lên con người Tính một ranh giới đàng hoàng của hiện sinh trong cái nhìn của một nhân vị. Nó là một sự lệch lạc nghiêm trọng đi ra ngoài khả năng ảnh hưởng của Dasein - yếu tố tiêu biểu của hiện hữu người. Dasein chỉ có ở một con người, một hiện hữu đúng nghĩa. Trong khi đó, ở Tính, ranh giới để phân định rằng Tính là người hay là thú dường như mờ nhòa trong một sự thiên lệch về phía thú tính của chính hắn. Điều gần gũi trong một sự đồng lõa với những kiểu cách hành xử của Tính kéo bản thân hắn xa rời về tầm mức không thể trì giữ được của những giới hạn an toàn đối với một sự bám víu về lại với nhân tính. Dasein trong phần người nhỏ nhoi còn lại của Tính đã chìm đắm trong sự dị biệt khó tìm được một giải pháp hàn gắn khả thi. Một sự hiện sinh mà Dasein trở nên dị dạng thì coi như đó là một sự hiện sinh chua chát đến dường nào. Tính là hiện thân cho một sự đau đớn của quần sinh (humanity), vì hắn “đã không đảm nhận được những nền móng hiện hữu của mình, và Dasein của y chạy trốn nỗi lo âu hiện hữu vẫn bám víu vào những lý tưởng không thể đạt tới”[2]. Hẳn là Tính sẽ không bao giờ có thể ý thức được điều đó, bởi vì ý thức của Tính đã chết từ lâu lắm rồi. Một sự thắng vượt đã trở nên trì giữ lâu đời khi hướng đến đích nhắm tạo ra một hậu cảnh tối tăm kiểu đó, Dasein không bị ruồng rẫy thì cũng đã được an bài nơi mộ táng. Dường như nó đã ngán ngẩm đến ê chề trước lịch trình của chọc tiết, từ máu lợn và không loại trừ luôn cả máu người, cứ thế chảy suốt như vậy.

2. Linh Sơn ở đâu? - Mê cung huyền ảo như là một sự bẽ bàng của ý thức

Linh Sơn là một địa danh có thật trong thực tế, đã được Nguyễn Bình Phương chắt lấy rất nhiều những cảm hứng khi viết nên Thoạt kỳ thủy. Để trả lời cho câu hỏi này thì với việc nêu tên địa điểm nhằm trả lời câu hỏi ấy thì quả thật quá ư ngây thơ và khờ khạo. Mà trên hết, việc đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi kia chính là việc thâm nhập vào một chốn ải biên cương của thâm u, tịch mịch, nó tiêu biểu cho chính những ngóc ngách ẩn giấu đằng sau những gì đang có ngay đây thôi. Chúng ta sẽ không loại bỏ khả năng quy chiếu quá trình tìm ra câu trả lời đối với câu hỏi ấy trong một liên hệ gần gũi với những điều đương diễn này.

a. Ý thức đứt đoạn trong dòng chảy tự trầm của không gian kỳ bí

Không gian ở Linh Sơn là biểu tượng cho những điều còn được tham chiếu trong sự cùn mòn đủ dạng của nhân sinh. Chúng ta sẽ lấy thước đo ý thức để dóng đến việc mô tả và phân tích không gian ở vùng đất này. Một dải trình của ý thức đứt đoạn và chắp nối. Một thứ ý thức khúc khuỷu và tràn đầy những biến cố khó lường. Không gian kỳ bí luôn nhuốm sặc một màu sắc của ý thức đứt đoạn. Chuyển tải trong một lưu động tự trầm ngẫu nhiên, nhưng không kém phần uẩn khúc. Sự lờ mờ như được vẽ ra trong những nét MIÊU TẢ ĐỐI VỚI VUNG ĐẤT NAY ĐA PHAN NAO CHO THẤY TÍNH CHẤT KY BÍ CỦA NÓ ĐƯỢC thể hiện ra sao. Đó là những “rặng bạch đàn rì rầm đen”, là “một mớ hỗn độn, bùng nhùng” khi trăng đến. Tất cả chiều ngang ở Linh Sơn đã hiện ra trong những kích thước không cùng của bí hiểm. “Ao Lang đen thẫm, lầm lì, bí ẩn như khuôn mặt người câm.” Không gian ở đây là hiện thân cho chính ý thức của con người nơi đây. Ý thức phả vào và không gian đã được tái hiện trong một chiều kích hướng về phía phác họa nên những điểm xuyết cho chính ý thức đang thoi thóp, đang rối rắm kia của con người ở Linh Sơn (các nhân vật trong truyện). Ở đây, không gian không còn là một sự hiện diện ngang bằng với thiên nhiên trong vai trò phô diễn các đặc điểm của mình nữa. Nó đã bị nhuốm một màu sắc của chính ý thức đang tham gia vào quá trình tạo tác nên cái không gian ly kì ở trong truyện. “Trời trong veo ở phía Đông, còn bên Tây lại đục ngầu, sôi ùng ục.” Bản thân ý thức thể hiện được sức sống tự nhiên của con người. Bây giờ, nó đã trở nên đứt đoạn và do đó quá trình vận hành của nó, dường như ở đó chẳng qua chỉ là một sự vận hành ì ạch trong thói quen, trong tập quán của nó mà thôi. “Trời bừng lên màu đỏ bầm rồi ánh sáng tắt hẳn. Đêm tràn lan theo các lùm cây. Mặt đất loang lổ.” Mối tương quan giữa ý thức và cảnh vật đã trở nên một sự tự định hình cho những lỗi lầm mà ý thức mắc phải. Để trong một chiều kích vươn ra và tỏa rộng theo chiều hướng của nội tại, nó đã phải khoác lên trên mình những gam màu của mênh mông, man dại. Cứ như thế nó chìm nghỉm trong một dòng chảy của lạnh lùng và bí hiểm.

b. Ý thức hỗn mang trong tham chiếu kì cùng của thời gian huyền thoại

Chỉ có thời gian huyền thoại mới đáp ứng được yêu sách này trong Thoạt kỳ thủy. Thời gian trong Thoạt kỳ thủy không phải là một thứ thời gian tuyến tính như trong thực tế - một chiều thứ tư của không gian vật lí. Nó là diễn trình sóng đôi của các sự kiện. Nó cho phép được tái hiện, được vi phạm mọi quy tắc tuyến tính mà thời gian thực không cho phép. Làm sao mà chỉ trong vòng 45 phút để nói về chuyện con cú bị bắn rơi, trôi theo dòng nước, rồi lại bay lên trong khi đó là một sự sóng đôi với cả cuộc đời của Tính, cả những biến đổi to lớn đối với những người dân ở Linh Sơn? Thời gian trong truyện đã cho phép tái bố trí những sự kiện mà chính những sự kiện ấy đảm bảo được tính hợp lý của chúng, trong chiều kích của thời gian huyền thoại. Cái thứ logic riêng biệt của nó chỉ có thể chu cấp cho những tham chiếu cật lực để qua đó giúp ta hình dung về mối quan hệ tác động giữa hai phía. Đó là một sự mở ra trong yếu tố phi lịch sử, nhưng không vì thế mà nó lại trở nên phi lý trong tính chất sử tính của sự kiện. Nó là sự vận hành của đại bộ phận những phân bố, những sắp đặt không có trật tự trong quá trình hiện diện hóa các sự kiện diễn ra như thế. Thông qua quá trình hiện diện của các sự kiện, trong một tính chất bắc cầu về với những sự sắp đặt khó bám víu vào trong cái được gọi là một trình tự đúng nghĩa. Những sự sắp đặt vô hồn ấy, hay là những trình tự biểu kiến đó cho ta thấy ý thức của con người Linh Sơn đang bấn loạn theo nhịp điệu mà các sự kiện tạo ra. Đó không như là một điều đơn giản mà các biến cố góp sức vào nhằm thay đổi các sự kiện theo những chiều hướng khác đi nhưng đó lại là một sự gia công thêm vào để cho trình tự các sự kiện diễn ra trong truyện đượm màu huyền thoại hơn nữa. Một sự hỗn mang đang nung nấu trong tâm can mỗi con người nơi đây. Trình tự sự kiện cho ta biết được cái cách mà thời gian được xây dựng như thế nào. Và đấy chính là nút thắt và lại ngang bằng với trung tâm của những neo buộc chính đáng đối với thao tác tham chiếu kì cùng của thời gian huyền thoại, để như một đáp ứng cho những trình tự được thỏa mãn một bộ quy tắc dựng sẵn nào đấy mà nó có đầy đủ lý do để diễn ra trong nhịp điệu vận hành đầy ma mị của nó, nhưng sơ yếu, nó vẫn là một thứ âm bản của ý thức hỗn mang mà các nhân vật đã thiết lập nên.

c. Lương tri hủ lậu hay là một sự biến tính (denatured) ý thức giữa điên và tỉnh

Đó như là một sự toa rập lầm lỗi giữa những thứ mãi mãi không thuộc về nhau. Nhưng ở đây, nó lại bắt cặp đến kinh hãi trong một thứ keo dính bám chặt như thế. Một sự toa rập mà giới hạn của nó là ở đâu, chẳng ai biết. Chỉ biết đó là một sự phủ bày của cảm trạng điên loạn vào trong trạng thái bình thường. Do đó, đã vẽ ra một kết cục của sự biến tính ý thức hay là chính sự biến tính ấy đã tạo nên một sự toa rập kỳ cục đó? Đấy là đám người điên ở làng Thổ, là Hưng như là những biểu hiện của chính cái sự toa rập nhập nhằng ấy. Bởi nguyên nhân không nằm ngoài con người họ mà nó xuất phát từ chính sự nhận thức đúng đắn đã bị thao túng đi, để rồi đem lại một kết quả không gì khác của một thứ lương tri hủ lậu chẳng đáng một xu bỏ túi. Đó là một sự nhọc nhằn cho việc lắng đục khơi trong đối với những trường hợp như thế này. Một sự song hành bộ đôi giữa điên và tỉnh, các câu nói của những người điên ở làng Thổ cũng đã phản ánh nên ở đó một sự lay lắt khó hiểu trong con người họ, trong cộng đồng mà họ đang sống ấy - một Linh Sơn trùng mộng. Và cả Hưng nữa, một đứa con thiếu tháng của sự biến tính ý thức trong chính hắn. Trong một đường hướng quan hệ không xa, dường như Hưng đã phần nào tác động lên Tính, để cả hai cùng dạt vào một hoang đảo đầy rẫy những vướng mắc, những toa rập của cả hai thứ vốn chẳng bao giờ chịu ngồi lại cạnh nhau cả. Một thứ triệu chứng về vấn đề tâm lý đã đè nặng lên đôi vai của ý thức con người y, để coi như đó là một sự xả bỏ thả cửa cho những nguy nan mà xác thân hắn gánh chịu lấy. Một thứ lương tri èo uột đến mẫn cảm nhưng lại hết sức bình thường đối với những con người nơi đây. Và cũng chính vì sức căng hiện diện của thứ lương tri đó mà ý thức đã bị biến tính một cách không thương tiếc. Một sự hủ lậu hay là tia nhìn ma quái vào gáy ông Phùng, cuối cùng cũng đã đổ sập trong một sự chống đỡ yếu ớt của lý tính, vì chính ý thức đã được an phận yên nghỉ rồi.

d. Cơ năng (mechanism) hư đốn hay là một sự thao túng ý thức giữa mộng và thực

Mắt chó vàng như trăng”. Có thể xem đây là câu cửa miệng của Tính. Một câu nói tưởng chừng như vờ vĩnh nhất lại được đem ra đáp lại khi Tính đi mua rượu ở nhà bà Ất. Bám theo nó, để ta chơi trò bập bênh với chính những ảnh tượng mà nó tạo ra. Một thứ ý nghĩa kỳ quặc không khác đi nhiều lắm so với chính những hành động trì độn của Tính, một thứ cơ năng hư đốn đến mưng mủ. Những cái cười vô duyên hay là những nỗi sợ hãi khi thấy ánh trăng, trong một liên hệ không xa lại một lần nữa khiến Tính quay về với tuổi thơ, từ cái lúc mới sinh ra đã choáng ngợp trước cái thứ lân tinh lạnh nhạt ấy. Để rồi, Tính lấy đá ném trăng. Ở đây, bên trong bản thân Tính đang là một cuộc hội ngộ giữa hai thế giới: mộng và thực. Chúng song trùng nhau như là hành động mà mỗi bên muốn thu hồi chủ thể tạo tác của mình vào trong địa giới mà mỗi trung khu điều lệnh kiểm soát. Đó là những giấc mơ lạ lẫm của Tính, và đó là cả những hành động khù khờ của một chủ thể đang bị xé đôi ra trong sự giao tranh, nhằm phân mảnh chính con người của hắn, với mục đích vứt bỏ vào trong một xoáy sâu thăm thẳm, của sự thao túng ý thức về với mỗi địa giới được kỳ vọng là thắng thế ở từng giai đoạn. “Thiếu một thực tại độc đáo để kính ngưỡng, phản ánh và siêu việt, chuyển động duy nhất khả thi là sự hoán vị theo chiều ngang từ một thế giới sống này đến một thế giới sống khác.”[3] Một sự níu giữ giữa hai lựa chọn, dừng lại tất cả để chuyển sang dòng độc thoại nội tâm lếch thếch những tủn mụn vật vờ của suy nghĩ, hay như là những hành động chọc tiết trong giấc mơ, máu và con dao, như một sự lừa phỉnh để lôi kéo rồi ghì chặt Tính vào trong vẻ choáng ngợp, khi ý thức bị dí chặt vào đấy, vào cái thứ mộng ảo mơn trớn ấy. Để rồi mới thấy được rằng, cơ năng hư đốn trong đời thực của Tính chẳng qua cũng chỉ là nạn nhân xấu số cho những điều tiết xuất phát tận trong sâu thẳm của bản năng, của vô thức chính hắn. Đó là một sự thao túng ý thức thành công ngoài cả mong đợi đối với nó - vô thức. Sức ngự trị của nó đã đẩy Linh Sơn vào cái thế đầy ắp những bí ẩn điêu tàn của quần sinh (humanity). Linh Sơn đã được đổ đầy trong một tác động nội tại của cái thứ đục ngầu vô lối ấy. Linh Sơn ở ngay đây thôi, không xa lạ gì cả. “Mắt chó vàng như trăng.

3. Vì sao Tính chết? - Tha nhân u uẩn (dark) như là một sự tự đào thải (self- rejection) của bi kịch làm người

Cái chết của Tính, một cái chết có thể coi như một sự minh chứng cho bi kịch làm người. Cái sự làm người đối với Tính dường như là quá khó và mãi mãi chúng ta không biết được những cố gắng, cũng như những nỗ lực của Tính, trong mong muốn hướng đến cái sự làm người ấy có hay không. Công thức đơn giản đó: máu và chọc tiết, giờ này đã hoàn tất chương trình của nó, nó chỉ dừng lại khi chính con người tạo ra công thức đó bị chính công thức ấy triển khai mà thôi. Tội lỗi có thể coi như đổ dồn lên đầu Tính được không? Cái chết đó có được truy vấn về nguyên nhân của nó hay không? Chết đã là một bi kịch, nhưng trong đương lượng ngang bằng với một sự tự đào thải thì cái chết đó còn hơn là một bi kịch nữa. Đó là bi kịch của kẻ thất bại trong hành trình làm người của chính mình. Chính cái sự tự đào thải ấy mà ta cố gắng thông cảm cho Tính, thông cảm cho một thân phận bi kịch, một kiếp người chua chát. Số phận đã mua bán đời Tính cho sự mông muội man khai nhất có thể, và rồi là một sự đổ dồn liên tục vào những lát cắt u mê ám chướng, một sự đọa đày cay đắng cho một con người còn chưa đi hết nửa đời. Cái chết ấy đã rũ bỏ hiện hữu và cũng như là một lời hối lỗi muộn màng. Kết thúc, cái chết ấy gợi cho ta những trầm uất lê thê tựa hồ như cái chết ấy ta đã may mắn không mắc phải, bởi ta được đặc ân hơn, vì con đường ta đi quang đãng hơn con đường của Tính đã đi rất nhiều.

a. Sự điêu toa của những điều hổ lốn hay là con người của những biểu hiện thấp hèn.

Dai dẳng của cái thứ mãi mãi không chịu quân bình - u uẩn nhân tính. Đó là điều mà chúng ta ngao ngán nhất. Nó là cái gì mà lại ghê tởm như thế? Cái thứ u uẩn ấy, nó điều động để chi phối cơ năng hành động của chúng ta, nó rắp tâm báng bổ lại tất cả, những giá trị được xô đổ vào cống nước thải cũng chỉ vì cái thứ hổ lốn ấy. Nó muôn hình vạn trạng, vây bủa, ngụy trang để rồi tự trát vữa cho nó một bộ mặt điêu toa không bao giờ cảm thấy xấu hổ cả. Và do đó, chính nó đã kéo con người Tính đi theo hết vết xe đổ này đến vết xe đổ khác. U uẩn nhân tính đó đã làm ý thức chúng ta luôn đề cao cảnh giác để duy trì cái sự quang minh của chính mình, nhưng tiếc thay, cái phần quang minh đó, trong con người Tính không có đủ sức mạnh để thắng vượt trước sự áp chế của cái phần u uẩn ấy. Và cái thấp hèn đã được đem lại khi nhìn nhận về Tính một cách đơn điệu như thế, chẳng giống với việc e dè một chút nào cả khi xem như đó là sự chỉ định của cái thứ u uẩn đó. Nó hổ lốn không cùng, trên mỗi bước đi nó đã bắt Tính thú tính hóa một cách từ từ. Nỗi u uẩn ấy đã hồ hởi ghi lại âm thanh ông Điện đưa dao đi vào cổ con lợn một cách sừn sựt, và cái yết hầu đã trở thành như một hình ảnh thường trực đối với Tính, từ đó nó phả ra như một cơ chế co thắt, giải nén vậy. Nó huy động cái cơ năng phù hợp với nó, và Tính đã trở thành một thằng đồ tể ngoan ngoãn nhất. Cái sự vấy máu của Tính khi lần mò từ những con công cống, những con kiến, để rồi đến những con lợn nhà hàng xóm và cuối cùng là những con người. Cái thứ u uẩn ấy không biết dừng lại và tự quy định đâu là những giới hạn của chính nó, nó biến cơ năng hành động thành kẻ nô lệ cho một sự thỏa mãn - một sự thỏa mãn khi ý thức đã tịch diệt từ lâu. Một thứ âm ỉ quay quắt, nó rỉ máu đến tận bàn tay của chính mình, để tự kết liễu đời mình. Giải pháp đó là quá đúng đắn và thiết yếu nhưng lại là một sự phạm quy và gian lận trong cuộc chơi nếu như không có điều đó chắc cũng sẽ triền miên lâu dài trong cái thứ u uẩn, hổ lốn này. Phạm quy và gian lận đó ngang bằng với một sự tự đào thải thông qua cái chết của Tính - để thấy đó, chọc tiết có thể tự chọc tiết luôn cả mình được nữa, một sự tự đào thải của kẻ lạc loài, một điêu linh rạn vỡ.

b. Số phận đọa đày trong dị chủng (impureness) hay là niềm tin vào những điều không thực (ngụy tín)

Một lối đi đã nhàu nát trên bước đường của Tính đến với đời. Trăng luôn là biểu tượng của những nét đẹp, của nguồn sống trong tâm thức con người. Nhưng đối với Tính, trăng hiện lên như một biểu tượng tràn đầy chết chóc, nó chẳng qua cũng chỉ là cái thứ ánh sáng vàng nhạt để rồi thẫm một màu đen đúa đến ngây dại. Đó là một cái nhìn về trăng đầy ám ảnh từ Tính. Một cái nhìn đã đẩy đối vật vào trong những sắp đặt và chu cấp bởi những niềm tin giả trá, tồi tệ hơn là một sự sợ hãi đến độ quẫn trí trước biểu tượng ấy - trăng. Số phận Tính tạo ra cũng đi theo một niềm tin không thực như thế, vào sức mạnh của bản thân muốn đối diện với chính cái thứ bị mình coi như là ma quái ấy. Và cả cái thánh giá đeo trên cổ của ông Khoa cũng không là ngoại lệ. Tính chả biết nó với ý nghĩa đúng thực ra làm sao, trong mắt Tính những thứ như trăng và tượng Chúa đều là những biểu mẫu của sự hướng đến từ một niềm tin ngụy tạo. Và bởi vì một điều rằng, bản thân Tính đã bị đọa đày trong một thứ bản mệnh dị chủng của mình quá sớm nên những thứ đó đối với Tính, cơ bản là vô nghĩa. “Đi tìm cuộc sống trong thế giới khả dụng, Dasein đã dần dần không còn biết đến bản ngã chân thực của mình mà chỉ biết những gì thực ra là do đời tạo ra.”[4] Và do đó mà giải pháp Tính chọn lựa là đi theo tập quán của cơ năng hành động chính mình. Chính con người Tính đã sản sinh ra những hành động quái đản để phô bày bản mệnh dị chủng đó của bản thân. Dị chủng là thứ không thuần nhất, cái bản mệnh bị nó choáng ngợp chính vì thế nên không thể đặt niềm tin vào đâu cho được, để hứng lấy sự dấn thân của mình vào trong những lý tưởng. Bản mệnh đó chờ đợi một sự phục sinh để ôm ấp nó, để giúp nó có thể chiến thắng đối với sự đọa đày thê thảm ấy. Nhưng sự phục sinh thì không đến, vì thế mà bản mệnh con người Tính đã èo uột như cái thuở đầu đời hắn đã phải như vậy. Ngụy tín đó đã làm cho Tính trỗi lên một sự thúc bách cùng quẫn qua cơ năng chọc tiết của mình. Khi “chiếc thánh giá bắt nắng vụt lóe lên rọi thẳng vào mắt Tính” thì cũng là lúc Tính lắp bắp từ “Trăng”, và ông Khoa bị chọc tiết. Một sự liên hệ minh chứng cho bản mệnh dị chủng đó của Tính. Một thứ bản mệnh đã chịu sự đọa đày đến thê thảm, khi biến mình thành một kẻ giết người là không thể chấp nhận được khi coi kẻ đó như một con người. Một sự phũ phàng khi cố gắng đến với máu để tìm cho mình hơi ấm từ máu, nhằm xóa đi cái cảm giác lạnh lẽo ấy của bản thân. “Lạy mày đừng vàng nữa. Lạnh lắm.” Chỉ có cách trung hòa ấy mới cho Tính một sự cân bằng, nhưng đó lại là một sự cân bằng phải trả giá quá đắt. “Máu của Tính trào ra, ấm, nóng.” Cái giá ấy đem cho Tính một sự thí mạng như thế thật tàn nhẫn. Cái chết của ông Điện, rồi đến ông Khoa, một người cho Tính thấy những gì u ám, và một người cho Tính thấy những gì quang minh. Thế nhưng, Tính đã không chọn lấy cái nhìn thiện cảm đối với ông Khoa, Tính chọn cái nhìn về phía ông Điện, cái nhìn đáp ứng bản mệnh của Tính, và do đó niềm tin mà Tính tạo ra đối với biểu tượng quang minh - chiếc thánh giá - là hoàn toàn phờ phạc. “Tính cười khoái trá, khụy đầu gối, mặt gục lên chiếc vại đựng nước.” Cái thứ bản mệnh dị chủng đó đã được thỏa mãn trong sự sung sướng, ở vào sự cáo chung của chính mình.

c. Nỗ lực để hiện tồn đúng nghĩa hay là sự nhạt nhẽo trong niêm kết (adherent) tinh thần

Tha nhân u uẩn, ở đây, không phải tha nhân trong con mắt của Sartre, tha nhân là địa ngục. Mà tha nhân là người khác, một sự tự phân thân của chính con người Tính, nó vong thân theo kiểu Hegel. Con người Tính khước từ chính bản thân hắn để hướng đến một thứ tồn tại không phải là con người hắn như hắn đã có đó. Nỗ lực để hiện tồn đúng nghĩa không có trong ý nghĩ của Tính, hắn đã bị tha hóa, đã bị chính hắn tha hóa vì bản thân không tìm đến một lý tưởng. Như đã nói, sức mạnh nội lực bên trong con người Tính không đủ để có thể tạo nên một sự tồn tại đúng nghĩa con người. “Chạy trốn trước hăm dọa của sợ, người ta sẽ bị đời thôi miên và do đó từ bỏ mình, mất hết tinh thần tự chủ và không còn làm chủ được hoàn cảnh.”[5] Bởi cội nguồn sâu xa là sự buông lỏng đối với mối liên kết tinh thần trong con người Tính. Một sự tự tạo để hình thành nên những thước đo cho lý tưởng đã bị quẳng ném đi. Đó không phải là một sự dính chặt (niêm kết) mà đó là một sự rời rạc đến tột độ những bấn loạn để hiện tồn theo cách mà Tính đã chọn lấy. Một sự lạc lõng trong tinh thần và đó cũng chính là thực tế của một sự lạc loài của Tính. Bản thân Tính đi trên con đường mà chẳng có ai là khách bộ hành trong cùng một chuyến đi. Chuyến đi ấy đầy bất trắc và trở ngại, chuyến đi ấy chỉ dành cho những ai bị lưu đày.

d. Lựa chọn để trở thành con người hay là chấp nhận bi kịch của chính nó

Một sự tự đào thải được diễn ra như một sắp đặt không thể nào khác đi. Một sự kết thúc của những điểu u uẩn, một sự an bài cho sự tự đào thải đã cố gắng làm như thế trước mọi nỗ lực để được xem là con người đúng nghĩa. Cái chết của Tính là một sự phơi bày đa đoan của quần sinh (humanity). Mà đa đoan là bi kịch, không thể khác đi trong một truy tìm đến với bi kịch để tự đào thải ra khỏi cuộc đời. Cái chết của Tính không cho phép ta nhìn nhận về Tính như là một cái chết của sự chấm dứt hiện sinh. Vì cái Dasein của Tính đã chìm đắm trong dị dạng từ rất lâu rồi. Chết không là một sự lìa đời đúng nghĩa mà đó đơn giản chỉ là một bi kịch. Bi kịch đó chỉ dành cho những kẻ bị ghẻ lạnh, và kẻ đó không riêng gì Tính, mà còn có cả Hưng nữa. Dường như sự lựa chọn để được là con người chính là cái chết. Chết mới chấm dứt mọi cơ năng hư đốn do chính bản thân mình tạo tác nên mà thôi. Cái chết mới giúp cho Tính đánh đổi lại được một giá trị của hai chữ con người. Đó là cố gắng để Tính có thể làm được khi muốn trở về với chính con người của mình. Một sự đa đoan thừa thãi của kiếp người. Nó không thiếu ở trường hợp của Tính mà nó đầy rẫy giữa thế gian. Sự đa đoan đó rất đơn giản với một luật chơi vô đối, chấp nhận sự tự đào thải của cá nhân anh, có như thế anh mới hoàn thành trọn vẹn được trò chơi này, và cái phần thưởng mà anh nhận lấy không gì khác đi là một sự tìm lại đúng nghĩa với bản chất của anh. Liệu rằng hơi ấm từ máu của Tính có giúp Tính thức tỉnh được không? Chúng ta không thể biết được điều này một cách rành rọt vì Tính đã chết. Nhưng trước khi chết Tính đã nở nụ cười khoái trá. Nụ cười được chia sẻ cho cả hai. Cho cái thứ bản mệnh dị chủng của chính mình và cũng là cho cái phần thưởng xứng đáng của trò chơi mà Tính đã tham gia. Tham gia để nhận lấy bi kịch, để không còn nữa, mãi mãi xa lìa; nhưng cốt yếu là để tìm lại được những gì mình đã không bao giờ được chạm đến nó. Tính gục xuống và một sự tự đào thải bi kịch cứ thế cũng kết thúc trong não nề.

4. Thoạt kỳ thủy là gì? - Đường về cái tôi như là tiếng kêu lạc lõng giữa một hư vô bất tận

Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi này chính là chỉ ra được bản chất ý nghĩa mà tác phẩm chứa đựng. Thoạt kỳ thủy, ta có thể hiểu đó là thời kỳ hồng hoang của loài người, thời kỳ man di và mông muội của quần sinh. Hay chăng, ta có thể hiểu thoạt kỳ thủy là một trạng huống của tinh thần con người, nó chẳng khác gì so với một sự thao túng của vô thức lên trên đời sống tinh thần của con người cả. Ở trường hợp trước, thoạt kỳ thủy được nhìn về trong vị thế của một danh từ, và ở trường hợp thứ hai, thoạt kỳ thủy được nhìn về trong vị thế của một tính từ. Tuy nhiên, để cố gắng gạn lọc ra được ý nghĩa của tác phẩm, thiển nghĩ, chúng ta cũng nên cần có một sự nhìn về bản chất của câu hỏi thoạt kỳ thủy là gì trong vị thế của nó là một động từ.

a. Nẻo đường heo hút của Dasein (hiện thể) hay là hành trình phiêu bạt về lại với cái tôi

Một sự cộng sinh với đời bất khả thành. Trong sự neo đậu của Dasein trên cõi đời, con người thực hiện một sự dấn thân. Và sự dấn thân đó, khi hiện thể còn mù lòa trước những chốn neo đậu, nó trở nên lênh đênh hơn trong sự nhập cuộc với số phận ấy. Thoạt kỳ thủy là hành trình phiêu bạt về lại với cái tôi khi đường đi của Dasein trở nên heo hút như thế. Sự bán thân vào lầu xanh ma mị đã cướp đi một nội tại bị rửa trôi những bản chất cao thượng vốn thuộc về con người, được xem là điển hình của hiện thể. Thoạt kỳ thủy đưa đẩy Tính như một nạn nhân bị cầm tù ở trong đó. Một sự trơ trọi chua cay giữa quần sinh. Hành trình cứ kéo dài để bản thân Tính cứ thế đi mãi, và dẫu cho hắn có chạy thật nhanh cũng không bao giờ đi hết nẻo đường ấy. Cái xoáy nước đã làm con cú dồn hết sức lực để không bị rơi tõm vào trong đó. Cuối truyện, là hai sự kiện trái ngược nhau. Tính chết, còn con cú thì đập cánh và bay “chẳng cần biết tới phương nào.” Bản thân con cú lúc này như là một sự cố gắng về lại với cái tôi của Tính thể hiện dưới dạng âm bản. Nó bay đi và mang theo một dấu ấn về cái thứ âm bản mà nó đã được đặt như một đối cực với Tính. Thoạt kỳ thủy cũng chính vì thế mà đã được vọng lên từ chính cái đập cánh ấy của con cú. “Bay, cứ bay, miễn là bay.” Nhưng hy vọng đường bay của nó sẽ đến nơi mà nó neo đậu được an toàn, cũng như thể nó sẽ nguôi ngoai đi từ tiếng cười đó của Tính, một phần nào đó trong tiếng cười khoái trá ấy là hiện thân cho sự phiêu bạt về với chính mình, nó đau đớn biết chừng nào!

b. Vết nứt muôn đời của bản mệnh (subsistence) hay là một sự phù phiếm trong hoang đàng (mythical)

Chính cái thứ bản mệnh dị chủng đó chứ không phải là cái thứ bản mệnh nguyên ủy của con người mình đã khiến Tính rơi vào màn sương mờ lòa trắng đục trong những giấc mơ của hắn. Thứ bản mệnh ấy đã tạo nên một vết nứt không sao hàn gắn được đối với cuộc đời của Tính. Nó nứt ra và một sự phù phiếm trong hoang đàng ập đến, Tính lặn ngụp trong đó. Thoạt kỳ thủy chính là sự nứt ra của cái thứ bản mệnh dị chủng như thế. Vết nứt muôn đời ấy đã tự sắp đặt cho một định mệnh gắn kết với hư tưởng. Con dao chọc tiết lợn xuất hiện trong những giấc mơ của Tính là hiện thân cho chính cái thứ bản mệnh bệnh hoạn ấy đang chuẩn bị chuyển hóa thành cơ năng hư đốn của chính con người Tính. Một sự hành động ngoan ngoãn, luôn nghe theo lời chỉ bảo của cái thứ bản mệnh dị chủng đó, nó là vết nứt sâu thăm thẳm của cõi đời. “Biểu tượng được tạo nên trong sự tưởng tượng khả kiến của thần thoại và trong những tư biện theo quan niệm.”[6] Sự phù phiếm đấy lại là một vết nứt, và đồng thời, thoạt kỳ thủy lại chính là sự nứt ra đó của cái thứ bản mệnh như thế. “Con dao chuyển màu trắng đục.” Đó chính là sự lưu chuyển đến hồi đỉnh điểm của cái thứ bản mệnh trong con người Tính, hoang đàng dàn trải trong cả giấc mộng cũng như bên ngoài đời thực của chính hắn. Một chốn ải hoang đàng nhẫn tâm, âu cũng là do chính cái vết nứt khốn nạn đó gây ra.

c. Tục lụy (mundane) của nhân gian hay là sự thẩm thấu (osmose) huyễn mộng (phantasmal) của cõi người

Một cách thế vào đời của mỗi người khi từ cái thuở đầu tiên của chính hắn lại là một sự nhập cuộc sơ khởi của thẩm thấu huyễn mộng. Nó như một sự chuyển mạch từ nơi mà nó thoát ra khỏi cái bào thai và có mặt ở đời. Có cái huyễn mộng ấy như thể nhắc nhở bản thân mỗi người không bao giờ quên đi cái cội nguồn phảng phất huyền thoại đấy của hắn. Rồi huyễn mộng không vì thế mà dừng lại, nó bung tỏa đi hết cả cuộc đời. Huyễn mộng ấy đau đáu hơn khi nhận ra nhân gian này là một xứ sở của tục lụy không hơn không kém. “Thấy mình không biết từ đâu tới và sẽ đi về đâu, chỉ biết rằng mình tại thế, mình bị ném vào một thế giới xa lạ, phi ngã, trong đó mình không có sự chống đỡ và nền tảng nào khác ngoài chính hoàn cảnh mình sống, người không khỏi đồng thời cảm thấy mình cô đơn, ghẻ lạnh. Đó là ý nghĩa thứ nhất của ruồng bỏ.”[7] Vì cái cảm giác ruồng bỏ đó luôn thường trực bên trong mình mà con người đã neo thắt vào cái huyễn mộng ấy. Cái huyễn mộng của đường lối hướng về với mong muốn kiếm tìm một nền tảng. Trong truyện, oái oăm thay, Tính lại bị chính cái huyễn mộng đó thôi miên đi. Và sự thôi miên đấy lại dai dẳng trong suốt cả một phần đời của Tính. Tục lụy của nhân gian không chỉ thấy Tính như một thằng điên, một đứa bị tâm thần, dở hơi mà hơn nữa nó lại như một cái shadow chùng chình trên thân phận của hắn. Thoạt kỳ thủy có chăng cũng chính lại là sự thẩm thấu không cùng ấy.

d. Hiện sinh nhân bản trong lay lắt cõi đời hay là dòng chảy hoang vu của thoạt kỳ thủy

Đến đây, thoạt kỳ thủy đã nghiễm nhiên hoàn tất lộ trình của chính nó. Quanh đi quẩn lại, trên đường về với cái tôi, dòng chảy hoang vu của thoạt kỳ thủy đã phủ lấp lên trên số phận của nhân vật chính trong truyện - Tính. Dòng chảy đó mang theo dấu ấn của một sự cắt đứt dứt khoát với chính con người của mình, để rồi cất bước đi về và tìm lại cái bản ngã đấy là một sự hoài công vô ích. Thoạt kỳ thủy được nhìn về trong ý nghĩa của một động từ nhưng không vì thế mà nội hàm của cả hai ý nghĩa trong cách nhìn về nó mang nghĩa của danh từ và tính từ lại bị bỏ quên đi. Cả hai cách nhìn đấy đã bổ túc cho chính cái nhìn chủ đạo về thoạt kỳ thủy được hiểu như là một động từ. Nhưng trên hết chính cái dòng chảy hoang vu của thoạt kỳ thủy trong một sự bất tận để về với cái tôi, về với những gì vốn sinh ra, nó đã thuộc về mình. Để rồi, “chúng ta không ngừng thiên di đến những cảnh giới xa lạ và chúng ta cũng không ngừng quay về với những lối cũ đường xưa.”[8] Nhưng dù là đi đến đâu chăng nữa chúng ta cũng không thể xa lìa khỏi sự có mặt của mình trong cõi đời lay lắt của chính mình. Đối với Tính, dòng chảy hoang vu của thoạt kỳ thủy đã chảy qua cả cuộc đời của hắn và cuối cùng hòa quyện với chính “dòng máu đang tràn theo hàng khuy áo” của Tính. Chỉ với một lý do đơn giản, Tính là một kẻ lưu vong lạc loài đến kiệt cùng như thế.

Thoạt kỳ thủy vẽ ra một kết cục từ sự xa lìa nhân chủng (human nature) của quần sinh (humanity). Nó giúp ta nhận ra chốn ải thâm u đó của cõi đời. Quang đãng như là điểm đến khi ta lên đường giải mã tác phẩm, ngang đây, đã hiển lộ ra. Đó là một sự đối chiếu về lại với chính bản thân của chúng ta, một sự phản tỉnh của chúng ta trước những rắp tâm u ám trỗi lên từ uẩn khúc bên trong con người mình và kể cả những gì mà người khác đem đến cho chúng ta. Để cho mỗi người không bị lọt thỏm vào trong những hố đen diệu nghệ của một sự lừa phỉnh đến tinh ranh như thế. Thoạt kỳ thủy là một hành trình của sự đày đọa, nhưng nó cũng có thể lại là một hành trình để thức tỉnh những con người, những thân phận rẻ rúng tránh sa vào chốn ải hoang vu bất tận của nhân quần (mankind).

Huế, 29/07/14
Phạm Tấn Xuân Cao (Theo Sông Hương 307/09-14)

---------------------
1. Nguyễn Bình Phương (2004), Thoạt kỳ thủy, Hà Nội: Nxb. Hội Nhà Văn. Mọi trích dẫn trong bài viết, nếu không đánh chú thích thì đều được trích ra từ tác phẩm này.
2. Trần Nhựt Tân (2006), Tâm lý học, Hà Nội: Nxb. Lao Động, tr 80.
3. Remo Bodei (2011), Triết học thế kỷ XX, Phan Quang Định biên dịch, Hà Nội: Nxb. Thời Đại, trang 208.
4. Lê Thành Trị (1974), Hiện tượng luận về hiện sinh, Sài Gòn: Trung tâm Học liệu, trang 356.
5. Lê Thành Trị, sđd, trang 356.
6. Jaspers K. (2008), Chân lý và Biểu tượng, Tuệ Hạnh dịch, Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Phương Đông, trang 79.
7. Lê Thành Trị, sđd, trang 351.
8. Remo Bodei, sđd, trang 206.